Tag Archives: Suy Ngẫm

Hôi của, bắt nạt dân và phép thử người Việt

Tiêu chuẩn

Hôi của, bắt nạt dân và phép thử người Việt

 Một dân tộc không biết xấu hổ trước hành vi đớn hèn của con người dân tộc mình, dân tộc đó mãi mãi lẹt đẹt trước văn minh và văn hóa.

I-Bản năng là những hành vi ứng xử tiềm ẩn của con người. Và chỉ trong những cơ hội nào đó, nó mới bộc lộ bột phát không kiềm chế. Nhưng điều đó không thể biện hộ, bào chữa cho những hành vi bản năng hồn nhiên, hoang dã, thậm chí biến thành tội lỗi của người Việt với người Việt mới đây. Read the rest of this entry

Bàn về chữ “dũng” của một bậc quân tử

Tiêu chuẩn

Bàn về chữ “dũng” của một bậc quân tử

Hai Lúa- Blog HL

110Khổng Tử dạy rằng, người quân tử là người có ba đức tính lớn: nhân, trí, dũng. Thế nhưng sau này, Mạnh Tử- một nhà nho mang nặng tư tưởng của tôn giáo và sự ảnh hưởng của những lê giáo phong kiến- sợ rằng có nếu quá ca ngợi cái “dũng”, kẻ dưới, kẻ yếu có thể dám chống lại cả bề trên, khi nhận thấy bề trên là kẻ vô đạo. Vì vậy, để phục vụ cho tự tưởng “Quân, Sư, Phụ” mà Mạnh Tử chỉ nêu những đức tính mà người quân tử cần có bao gồm: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Đức tính “dũng” đã bị xem nhẹ vì sự áp đặt và quyền lợi của giai cấp phong kiến muốn thống trị người dân bằng đặc quyền lâu dài.

Có lẽ sẽ là rất buồn cười nếu có bác nào đó nói với tôi rằng, phụ nữ biết gì mà bàn về quân tử? Thời phong kiến, “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”. Tôi xin mở một dấu ngoặc cho bài viết này của mình là “bây giờ là thế kỷ 21 rồi”, bao nhiêu nước đang rơi vào tình trạng “dương thịnh, âm suy”; và trong tương lai gần Việt Nam cũng trở nên khan hiếm phụ nữ. Chẳng có một bằng chứng nào về di truyền học, về giải phẫu học, về nhân chủng học nói rằng phụ nữ kém cỏi hơn nam giới về trí tuệ, về sự nhanh nhẹn sắc sảo trong việc ra quyết định về cái uy dũng, thần thái của một người quân tử cả. Vì vậy, khái niệm này tôi xin bàn đến chung cho cả hai giới, nam cũng như nữ.

Như thế, khái niệm người quân tử cũng không phải là đặc quyền chỉ tồn tại ở nam giới mà thôi.

Khái niệm của Khổng Tử về ba đức tính cơ bản của con người, “Nhân thì không lo, Trí thì không nghi ngờ, Dũng thì không sợ” (Quân tử đạo hữu tam: nhân giả bất ưu, trí giả bất hoặc, dũng giả bất cụ).

“Nhân” là lòng thương yêu giúp đỡ người; có “nhân”

“Trí” là hiểu biết, phân biệt rõ đúng, sai, hay, dở; có trí sẽ không bị nhầm lẫn, không đi sai đường khiến lầm lẫn cuộc đời.

“Dũng” là gan dạ, dám vượt mọi khó khăn, gian nguy; có dũng sẽ không biết sợ: không sợ gian lao, không sợ cường quyền, bạo lực cho dù phải hi sinh cả tính mạng cũng vẫn ngang nhiên và kiên trì đi theo con đường mà mình lựa chọn.

Thế nhưng trong ba phạm trù trên, cái nào quan trọng hơn và cần thiết hơn hay có giá trị tương đương? Ở đây rõ ràng, thiếu một trong ba đặc tính Nhân, Trí, Dũng chúng ta đều phải thừa nhận rằng đó không phải là một người quân tử. Cả ba đặc tính đó là điều kiện cần và đủ của một một đấng trượng phu đúng cách.

Nhân- nếu đòi hỏi triệt để phải có trí, sự có mặt cả hai đặc tính này giúp người đó tìm ra được cách giúp đỡ người khác một cách hữu hiệu, thiết thực nhất. Nếu có thêm có dũng (gan dạ, kiên trì thực hiện ý định giúp người) thì họ sẽ giúp người đó đến cùng. Nếu chỉ có Nhân thì thường con người dễ bị ủy mị, bị tình cảm chi phối mà thiếu sự phán xét của lý trí.

Nếu một cá nhân nào có chỉ có Dũng, gần như mọi thứ cao đẹp đều bị dẹp bỏ. Dũng khi đó trở thành thứ tính cách ngang tàng, liều mạng, đôi khi là một kẻ gàn bướng, cố chấp, nó trái ngược hoàn toàn với phong thái của người nho nhã, trượng phu. Nói không ngoa, Dũng chỉ có giá trị đạo đức khi phục tùng Trí và Nhân. Dũng là cái nền để Nhân và Trí được bộc lộ, là điểm tựa cho Nhân và Trí toả sáng.

Tuy nhiên, nếu có cả hai phẩm chất Nhân và Trí mà không có Dũng thì sao? Chỉ có Nhân mà không có Dũng là kẻ nhu nhược yếu hèn, ủy mị, chỉ có Trí mà không Dũng là kẻ khôn lỏi, lọc lừa, dùng trí khôn và kiến thức của mình chỉ nhằm mục đích vụ lợi, luôn đặt lợi ích của bản thân lên trên hết, kẻ chỉ có trí mà vô dũng giống như một loại tắc lè hoa, a dua theo kẻ mạnh, dù biết kẻ mạnh sai trái; khiếp sợ, bạc nhược trước cường quyền bạo lực, dễ đánh mất mình. Nếu kẻ đó lại thiếu thêm chữ Nhân thì đây thực sự là mối nguy hiểm, là thảm họa cho nhiều người.


Sẽ có nhiều người nghĩ rằng, đàn ông thường có lợi thế hơn hẳn phụ nữ ở hình thể, hay có võ nghệ nên họ mới cam đảm, mới có Dũng. Nghĩ vậy là lầm! Cơ bắp hay võ nghệ chỉ yểm trợ phần nào cho sự can đảm mà không thể sánh với lòng can đảm, với cái Dũng được. Biết bao người sức trói gà không chặt mà thừa lòng can đảm, đến nỗi những kẻ đầy võ nghệ, đầy uy quyền cũng vẫn bị khuất phục.

Một tích xưa kể rằng Tần Thủy Hoàng muốn chiếm Anh Lăng nhưng không muốn đánh mà dùng kế, sai người đến bảo An Lăng quân:


- Vua ta muốn đem 500 dặm đất để đổi lấy đất An Lăng là 50 dặm, mong ngài hãy bằng lòng.


An Lăng quân không chịu và nói:

– Cảm ơn nhà vua đã gia ân. Đất tôi dù có 50 dặm nhưng vẫn là đất của tổ tiên để lại, không thể vâng mệnh.


Vua Tần nổi giận, sửa soạn cất quân đi đánh. Bấy giờ có một người áo vải già nua tên là Đường Thư vào xin An Lăng quân để đi sứ sang thuyết vua Tần. Vua Tần nói:


- An Lăng quân khinh ta chăng mà không chịu đổi 50 dặm để lấy mảnh đất rộng gấp mười? Cỡ như Hàn, Ngụy ta còn diệt huống gì đất An Lăng? 

Đường Thư nói:


- Không phải! An Lăng quân nhận đất của Tiên vương nên phải giữ, dẫu nhà vua đem ngàn dặm cũng không đổi chứ đừng nói 500 dặm.


Vua Tần nổi giận trợn mắt hỏi Đường Thư:


- Tên già ngu ngốc kia, ngươi có biết thiên tử giận thì sao không?


- Thì sao?


- Thiên tử mà giận một cái thì thây phơi trăm vạn, máu loang ngàn dặm.


Đường Thư ôn hòa hỏi lại:


- Đại vương có biết hạng áo vải nổi giận thì sao không?

Vua Tần lồng lộn lên đáp:


- Tụi áo vải mà giận thì chỉ lột mão, cởi dép, dập đầu mà lạy!


Đường Thư nhếch mép cười:


- Cũng có thật! Nhưng đó chỉ là bọn thất phu. Chứ kẻ sĩ giận thì khác. Lúc Chuyên Chư đâm Vương Liễu thì sao chổi lấn át mặt trăng; lúc Nhiếp Chính đâm Hiệp Lũy thì cầu vồng trắng vắt ngang qua mặt trời; lúc Yếu Ly đâm Khánh Kỵ thì chim ưng xanh đá nhau trên điện. Ba vị đó đều kẻ sĩ áo vải, lòng nén uất nên trời mới hiện lộ những điềm như vậy. Nay sắp có thêm tôi nữa là bốn. Kẻ sĩ mà nổi giận thì thây nằm hai cái, máu loang năm bước, thiên hạ để tang, tức như hôm nay.


Nói rồi tuốt gươm đứng lên. Vua Tần sợ quá nhũn người quỳ xuống tạ lỗi:


- Thôi, thôi! Mời tiên sinh ngồi! Làm gì đến nỗi như vậy! Quả nhân hiểu rồi. Hàn, Ngụy bị diệt mà An Lăng quân chỉ có 50 dặm đất mà vẫn giữ được chính là nhờ có tiên sinh đó!

Hôm qua, xem ti vi, nhìn thấy cái cách cười, cái thần thái, cái uy dũng của bác cựu bộ trưởng bộ tư pháp nhà ta, Ts. Nguyễn Đình Lộc, một trong 72 vị trí thức khởi xướng “kiến nghị 72” mà tôi chạnh lòng. Tự hỏi, thế lực nào khiến ông, một người ngồi ở chức phẩm tương đương hàng Thượng Thư ở triều đình phong kiến, thừa tri thức để phán đoán việc đúng việc sai, thừa kinh nghiệm để hiểu được hành động trả đũa của đối phương nếu có, thừa tuổi tác để hiểu được câu danh ngôn “ngựa chết để da, người chết để tiếng” lại co dúm tội nghiệp đến thế, cười cười nói nói ngập ngừng

“…nhưng thật ra thì đến đấy mới được lên trưởng đoàn, đến lúc trao thì mới được lên trưởng đoàn. Còn trước đó thì thật ra những cái bản ấy tôi không tham gia. Tôi không tham gia“.

một cách khiên cưỡng? điều gì đã khiến ông rụt rè, khiếp nhược chỉ trong một thời gian quá ngắn mới có 2 tháng 4 ngày khi thời hạn góp ý vẫn chưa kết thúc?

Ngẫm ra, cái “Dũng” của một cô Phạm Thanh Nghiên yếu đuối, của một Lê Thị Công Nhân nhỏ nhắn, của một Nguyễn Thị Minh Hạnh mỏng manh,….nó mới quý giá và cao đẹp làm sao? Cái Dũng đó hóa ra chẳng phải là “đặc sản” chỉ gắn cho những người mang danh là nam nhi chi chí, trí tuệ hơn người, quyền cao chức trọng, bằng cấp tột bực, quyền uy lẫy lừng. Phải chăng ông Lộc thiếu nó vì chữ “Nhân- tình yêu thương đồng bào mình” của ông vẫn còn chưa đủ lớn?

Nhạc sĩ Phạm Duy tài danh và ‘điệp khúc’ hổ thẹn

Tiêu chuẩn

Nhạc sĩ Phạm Duy tài danh và ‘điệp khúc’ hổ thẹn

 

           

 

 

 

 

 

 

Giữa những ngày này, người hâm mộ nhạc Phạm Duy còn đang đắm mình vào những ca khúc nổi tiếng, tài hoa của ông, thì có một “điệp khúc” khác, cứ lặp đi lặp lại, thật đáng hổ thẹn.

 

Ngày 27/1 mới đây, một thông tin khiến xã hội, những người vốn ái mộ âm nhạc của nhạc sĩ Phạm Duy chấn động: Ông đã trút hơi thở cuối cùng ở tuổi 93, để trở về miền xa vắng…

 

Khóc cười theo vận nước nổi trôi…

 

Hàng trăm bài báo, bài viết trên trang mạng xã hội thương tiếc ông, người nhạc sĩ tài danh, một trong những cây đại thụ của nền âm nhạc VN, cùng với Văn Cao, Trịnh Công Sơn, những tài năng đỉnh cao, đặc sắc và… quyến rũ đặc biệt người hâm mộ.

Một người nghệ sĩ tràn đầy năng lượng sống và sáng tạo. Một đời sống có đủhỉ, nộ, ái, ố, có đủ tham, sân, si. Nó đem đến cho ông cả sự thi vị, sự phiêu lưu, đem đến cho ông, người nghệ sĩ quá đa tình, phóng túng, cả thú vị lẫn phiền toái, cả sự nổi tiếng và không ít…tai tiếng.

Vậy nhưng có lẽ, ông đã không chịu đựng nổi cái chết của người con trai cả, ca sĩ Duy Quang, vừa mất chưa trọn 49 ngày. Nỗi đau trong con tim người cha- người nhạc sĩ già, đã vỡ… Dù đời ông từng trải qua biết bao kiếp nổi trôi, hạnh ngộ cùng ly biệt.

Sinh ra trong một gia đình con nhà “nòi”, cụ thân sinh ông là Phạm Duy Tốn, nhà văn xã hội tiên phong của nền văn học mới đầu thế kỷ XX, tác giả truyện ngắn khá nổi tiếng Sống chết mặc bay. Anh trai ông là Phạm Duy Khiêm, cựu Đại sứ VNCH tại Pháp, cũng là nhà văn, tác giả những cuốn Légendes des terres sereinesNam et SylvieDe Hanoi à Lacourtine…(*)

Nhưng cái chất con nhà “nòi” đó, phải đến Phạm Duy, mới đạt tới độ tích tụ và thăng hoa tột đỉnh.

Số phận con người, dù bé nhỏ đến đâu, cũng mang một phần lịch sử (**) Nhạc sĩ Phạm Duy cũng vậy, dù khởi đầu, có lẽ ông chưa ý thức được hết. Khi dấn thân vào con đường ca nhạc, sáng tác bản nhạc đầu tay (phổ nhạc bài thơ Cô hái mơ của Nguyễn Bính), như một hứng khởi bản năng của một người tài trẻ tuổi.

Kiếp cầm ca rong ruổi nay đây mai đó ở một gánh hát, như một thứ định mệnh, cho ông mở tầm mắt về đất nước, nạp cho ông năng lượng sống, cảm thụ tràn đầy, mở mang hiểu biết. Cho ông gặp gỡ những tên tuổi nghệ sĩ lớn, đương thời. Đặc biệt là cho ông gặp gỡ Văn Cao, người bạn thân suốt cả một đời, dù lúc gần gũi, lúc cách xa bởi thời thế và sự chọn lựa, dẫn đến số phận trôi nổi rất khác nhau. Tri kỷ gặp tri kỷ, tri âm gặp tri âm.

Trong cả một cuộc đời gần trọn thế kỷ, có một “quãng tối”-một “quãng lặng” buồn nhất, kéo theo rất nhiều hệ lụy, hẳn khiến ông thao thức những đêm dài. Đó là những tháng năm theo kháng chiến, bồng bột, sôi nổi, đầy chất thị dân và nghệ sĩ, để rồi cuối cùng ông…lạc bước. Hay đó là sự chủ ý chọn lựa? Chỉ ông thấu hiểu mình nhất!

Ông đã phải “trả giá đắt” cho bước chân lạc nhịp, lạc điệu của mình. Dù âm nhạc của ông, là sự tinh tế, điệu nghệ của tâm thức dân ca, kết hợp tài tình, tài hoa với tân nhạc. Là tâm hồn thuần Việt hòa quyện với phong cách hiện đại, tây phương.

Nhạc sĩ Phạm Duy tài danh đã về miền xa vắng. Ảnh: Minh Thăng

Thế nhưng, ngay cả khi lạc bước, để rồi cuộc đời ông, lúc thăng, lúc giáng, lúc trong, lúc trầm, như những thang âm ngũ cung của xứ sở, ai bảo tâm hồn ông, không luôn hướng về quê hương, không day dứt và thiết tha với nước Việt khổ đau và can trường? Dù xa quê, xa xứ, lúc sang Pháp học âm nhạc, lúc đưa cả gia đình sang Mỹ định cư- hành trình cuộc đời ông luôn chênh vênh, như giữa hai bờ xa cách. Hay đó cũng là sự cô đơn sâu thẳm trong thân phận…

Có lẽ vậy, mà vào chính những năm tháng bị coi là lạc bước, hai tác phẩm đỉnh cao Tình hoài hương, Tình ca ra đời. Hai tác phẩm nhưng đều chỉ nặng một chữ tình, đã làm khắc khoải biết bao con tim người Việt. Trong niềm nhớ, có niềm đau, trong xa cách, lại đầy gần gũi.

Quê hương tôi có con đê dài ngây ngất, lúc tan chợ chiều xa tắp, bóng nâu trên đường bước dồn, lửa bếp nồng, vòm tre non làn khói ấm hương thôn(Tình hoài hương).

Nhưng nhất là Tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời, người ơi, mẹ hiền ru những câu xa vời, à à ơi! tiếng ru muôn đời” (Tình ca).

Trước đó, là nhạc phẩm Gươm tráng sĩ, Chinh phụ ca, Thu chiến trường, Nhớ người ra đi, Tiếng hát sông Lô, Nương chiều

Và sau này, là Ngày trở về, Người về, Tình nghèo, Thuyền viễn xứ, Viễn du…, nhất là hai trường ca gây tiếng vang: Con đường cái quan và Mẹ Việt Nam. Đặc biệt, là Minh họa Kiều, tác phẩm ông hoài thai nhiều nhất, sáng tác những năm cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI, như một cái kết có hậu cho hành trình sáng tạo không mệt mỏi của ông. Minh họa Kiều đã được biểu diễn tại Hà Nội, năm 2009. Và người viết bài cũng có cơ hội được thưởng thức, giữa khán phòng đông nghịt người hâm mộ, im phăng phắc.

Ông quả thực, đã khóc cười theo vận nước nổi trôi – bằng âm nhạc, bằng tài năng lớn của mình.

Hiếm có một nhạc sĩ Việt Nam nào, sở hữu cả một gia tài âm nhạc đồ sộ về số lượng- 1000 ca khúc, lại đa dạng về thể loại như ông: Từ Nhạc kháng chiến, đến Nhạc quê hương, Nhạc tình đôi lứa, Nhạc tâm tư. Từ Trường ca, đến Rong ca, Đạo ca, Thiền ca, Tâm ca, Tâm phẫn ca. Thậm chí cả…Tục ca, Vỉa hè ca, Tị nạn ca…

Một người hâm mộ, am hiểu và mê đắm nhạc ông đã phải viết, cần có cả một khoa nghiên cứu- Phạm Duy học. Điều đó quá đúng. Ông viết nhạc, nhưng lịch sử âm nhạc VN rồi đây sẽ phải viết kỹ lưỡng, đầy đủ về ông. Một tài danh âm nhạc hiếm có, với tất cả cái hay cái dở, cái trong cái đục, của một đời nghệ sĩ lớn, trong một thời đại nhiều giông bão, và cả lắm… nhiễu nhương, rất cần cái nhìn khách quan, khoa học và không định kiến.

Văn hóa, trong đó có âm nhạc không làm ra trực tiếp của cải vật chất cho xã hội, nhưng làm nên hồn cốt một dân tộc. Và nếu nhìn ở góc độ đó, ông- người nhạc sĩ tài danh và đặc sắc của nước Việt, thường chỉ tự nhận là kẻ hát rong của thế kỷ, đã góp phần không nhỏ, làm nên hồn cốt, tâm thức người Việt.

Và cho dù, có ấm nồng miền viễn xứ, thì nước Việt, cuối cùng vẫn là sự chọn lựa của người nhạc sĩ đa tài và đa tình. Những bản nhạc bất hủ của ông, từ lâu đã là sợi nhau nối ông với xứ sở ruột rà, nơi ông có bao yêu thương, cay đắng, có vinh quanh và cả bẽ bàng. Nhưng ông vẫn yêu và xin tạ lỗi. Tạ lỗi với xứ sở, và với những người đàn bà ông gặp trên đường đời…

Còn nhân dân, bao giờ cũng là vị giám khảo công bằng, công tâm với âm nhạc của ông.

Những ngày này, gia đình nghệ sĩ của ông, những người ái mộ ông, ái mộ âm nhạc Phạm Duy đau đớn, thương tiếc tiễn đưa ông. Nhưng biết đâu, ông lại mỉm cười. Vì như ông từng nói: Ca sĩ còn hát nhạc của tôi nghĩa là tôi còn sống. Và cũng vì nơi chín suối, ông được gặp người con trai cả Duy Quang, được gặp người vợ tào khang, yêu dấu và cũng từng bao đau khổ, vì ông?

Đó mới là sự hạnh ngộ vĩnh viễn của kiếp người?

“Điệp khúc” hổ thẹn

Cũng giữa những ngày này, người hâm mộ nhạc Phạm Duy còn đang đắm mình vào những ca khúc nổi tiếng, tài hoa của ông, thì có một “điệp khúc” khác, cứ lặp đi lặp lại, thật đáng hổ thẹn. Đó là “điệp khúc công chức 100 triệu”.

Sau gần hai tháng quyết tâm truy tìm, lập đoàn kiểm tra xác minh vụ việc, Hà Nội vẫn không thể tìm ra kẻ…hưởng cái “lộc” này!

Nếu cứ theo lôgic thuần túy, người phát biểu gây sốc cho cả xã hội, là ông Trần Trọng Dực, Chủ nhiệm UB Kiểm tra của Thành ủy phải chịu trách nhiệm về “phát ngôn ấn tượng” của mình, có vẻ như không có căn cứ. Thế nhưng lạ thay, xã hội không tin vào kết luận của Sở Nội vụ HN, mà lại tin vào phát biểu của ông Trần Trọng Dực.

Chả lẽ, xã hội chúng ta đang sống ở thời thích nghe “tin đồn” hơn “tin tức”?

Có một phần như vậy, vì tâm lý con người vốn thích những chuyện hiếu kỳ, đồn thổi.

Tuy nhiên, nếu coi tham nhũng thực sự đang là vấn nạn, là quốc nạn, đến mức, vị quan chức đứng đầu Nhà nước phải chua xót thốt lên rằng, một bộ phận không nhỏ cán bộ, đang viên suy thoái về đạo đức. Rằng, tham nhũng có thể ảnh hưởng đến sự tồn vong của chế độ. Thì câu chuyện “chạy công chức 100 triệu” chắc chắn có cơ sở của nó. Bởi người nói, cũng là một quan chức có trách nhiệm, và ông dám chính danh với phát ngôn của mình, trước màn hình, trước hàng triệu khán, thính giả.

Và lật lại nhiều vụ tham nhũng, thất thoát, như Vinakhủng chẳng hạn, người ta thấy có tới 11 lần thanh tra, kiểm tra các loại, mà có phát hiện đượcVinakhủng sai phạm gì đâu? Con voi còn chui qua được lỗ kim nữa là…

Có điều vụ việc chạy công chức 100 triệu này chua xót và đáng hổ thẹn ở chỗ, nó cho thấy “một đời sống không bình thường”, một đời sống “đi đêm” tràn lan trong hệ thống guồng máy cán bộ, từ vị trí nhỏ nhất. Nó khiến cho người dân mất lòng tin. Đến mức, trước hiện tượng ai đó thăng quan tiến chức, người ta không chú ý đến năng lực, thực tài của họ, mà chỉ xầm xì, rằng cái ghế này mua hết bao nhiêu…bao nhiêu…

Cả xã hội bỗng dưng thành những nhà tài chính- kế toán bất đắc dĩ.

Nó chua xót và hổ thẹn đến mức, trả lời phỏng vấn báo chí mới đây, ông Dương Trung Quốc, Đại biểu QH cho rằng: Trong sâu xa, nhiều người đã đánh mất một phẩm chất rất lớn của con người nói chung và đặc biệt của những người gánh vác việc công là liêm sỉ. Với họ, nói dối, chối tội là việc rất đơn giản và có cảm giác như… cơm bữa.

Tham nhũng thực sự đang là vấn nạn. Ảnh minh họa

Còn ông Trần Quốc Thuận, nguyên Phó CN Văn phòng QH có nói rất trúng cái “bệnh thành tích” cố hữu của người quản lý:

Sở dĩ có kết luận rất “hậu” kia là do cơ chế người đứng đầu chịu trách nhiệm. Nếu người đứng đầu mà càng khui ra nhiều tiêu cực thì càng phải chịu trách nhiệm, nên việc thanh tra, kiểm tra để phát hiện tiêu cực chẳng thể đạt hiệu quả cao.

Trả lời phỏng vẫn báo chí, bà Nguyễn Thị Khá, ĐBQH khóa 13 cho rằng,kết quả kiểm tra của Sở Nội vụ HN, đang thử thách lòng tin của nhân dân.

Không chỉ thế đâu, vì lòng tin của dân đã bị thử thách nhiều lần rồi. Mà nói cho cùng, vụ “chạy công chức 100 triệu” đang thách thức chính… cơ chế quản lý xã hội hiện nay!

Thế nên, ĐBQH Dương Trung Quốc có lý khi ông so sánh, đặt hệ thống công chức bên cạnh hệ thống quản lý của những tổ chức tư nhân:

Nếu có cạnh tranh hợp pháp, lành mạnh, các nhóm cạnh tranh sẽ giám sát chặt những người đương quyền, thậm chí tổ chức điều tra một cách hữu hiệu. Các vụ tham nhũng, lộng quyền bị phanh phui và đưa ra trước công luận, thậm chí trước tòa án.

…Đấy là cách giám sát, chống tham nhũng hữu hiệu nhất. Những cách khác cũng có thể có tác dụng, nhưng không có cạnh tranh hợp pháp và lành mạnh, báo giới không được thật sự tự do, thì việc hô hào chống tham nhũng, lạm quyền khó có kết quả thật sự.

Chợt nhớ tới nhà văn Phạm Duy Tốn, thân phụ nhạc sĩ Phạm Duy, tác giả cuốn truyện nổi tiếng Sống chết mặc bay. Từ cuốn truyện này, cụm từ Sống chết mặc bay, tiền thầy bỏ túi đã trở thành một…thành ngữ, đi vào đời sống dân gian.

Gần một thế kỷ đã qua, nhưng câu chuyện quá khứ thời phong kiến, lại đang là câu chuyện nóng hổi của thời hiện đại.

Khiến cho người Việt lại tiếp tục khóc cười theo vận nước nổi trôi…

Kỳ Duyên

——-

Tham khảo:

(*) http://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%E1%BA%A1m_Duy

(**) http://tuanvietnam.vietnamnet.vn/moi-hay-vat-doi-sao-doi

http://sgtt.vn/Van-hoa/174723/%E2%80%9CToi-sung-suong-duoc-lam-nguoi-hat-rong-cua-the-ky%E2%80%9D.html

http://laodong.com.vn/Lao-dong-cuoi-tuan/Khong-co-chuyen-chay-cong-chuc-100-trieu/100494.bld

http://dantri.com.vn/xa-hoi/ong-duong-trung-quoc-voi-ho-noi-doi-choi-toi-nhu-com-bua-689641.htm

http://dantri.com.vn/xa-hoi/ket-luan-vu-chay-cong-chuc-dang-thu-thach-long-tin-cua-nguoi-dan-689187.htm