Tag Archives: Đào Tiến Thi

Thư ngỏ gửi BCHTƯ Đảng nhân Hội nghị TƯ 7 khoá XI

Tiêu chuẩn

Thư ngỏ gửi BCHTƯ Đảng nhân Hội nghị TƯ 7 khoá XI

Đào Tiến Thi-ABS

384689_508572339169518_1134843707_nKính gửi Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam

Tôi là Đào Tiến Thi, thường trú tại 113E Hoàng Hoa Thám, Ba Đình, Hà Nội, chứng minh nhân dân số 013060932; là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam (thẻ Đảng số 97 003164); lĩnh vực hoạt động: biên tập sách, nghiên cứu văn học (hiện là hội viên Hội Văn học nghệ thuật Vĩnh Phúc), nghiên cứu ngôn ngữ (hiện là Uỷ viên Ban chấp hành Hội Ngôn ngữ học Việt Nam).

Với ý thức trách nhiệm trước vận mệnh đất nước, tôi trân trọng gửi đến BCH Trung ương một số ý kiến về bài học có thể rút ratừ cuộc vận động canh tân của các sỹ phu Nho học đầu thế kỷ XX.   

Thưa quý vị Trung ương

Dân tộc Việt Nam cũng như Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay đang đứng trước tình thế buộc phải lựa chọn con đường tồn tại và phát triển của mình, nếu không muốn bị diệt vong.

Qua nghiên cứu lịch sử Việt Nam đầu thế kỷ XX, chúng tôi nhận thấy đây là giai đoạn dân tộc ta đột nhiên thức tỉnh và hội nhập với thế giới hiện đại, mà người khai sáng lại chính là những con người thế giới cũ: tầng lớp sỹ phu Nho học cuối cùng của chế độ phong kiến thời kỳ suy tàn. Họ là những nhà cách mạng, nhà văn như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Ngô Đức Kế, Nguyễn Thượng Hiền, Lương Văn Can, Nguyễn Quyền,… Họ có thể đứng chân ở những tổ chức khác nhau (Đông du, Duy Tân, Đông Kinh nghĩa thục,…), hoạt động trên những lĩnh vực khác nhau nhưng đều chung một chí hướng: quyết tâm canh tân đất nước, đồng thời “thay máu” chính mình.

Để làm được điều đó, các cụ thời ấy đã phải phá lệ, cụ thể đã phải làm ít nhất ba việc “phản lại” truyền thống sau đây:

    -Kịch liệt phê phán ý thức hệ Nho giáo, đề cao dân quyền, coi dân quyền là cội nguồn của quốc gia thịnh trị; 

    -Từ bỏ đặc quyền đặc lợi của chính mình – một giai cấp đã ăn trên ngồi trốc một nghìn năm;

   – Đón nhận những yếu tố tiến bộ từ phía kẻ thù với một tinh thần cầu thị cao.

Chúng tôi thấy những điều này là bài học rất hay cho Đảng Cộng sản Việt Nam hôm nay. Dưới đây xin phân tích cụ thể hơn.

1. Kịch liệt phê phán ý thức hệ Nho giáo, đề cao dân quyền, coi dân quyền là cội nguồn của quốc gia thịnh trị  

Nho giáo là một hệ tư tưởng – chính trị – đạo đức có ảnh hưởng sâu sắc đến Việt Nam. Trong suốt một nghìn năm dưới chế độ phong kiến, Nho giáo chi phối toàn bộ đời sống xã hội, đặc biệt là đối với giai cấp phong kiến. Theo chúng tôi, Nho giáo có ba phần: phần tư tưởng (triết học), phần học thuyết chính trị và phần đạo đức. Ở đây xin chỉ bàn phần học thuyết chính trị(cũng là phần chủ yếu của Nho giáo) trong quan hệ với tầng lớp sỹ phu nói trên. Chúng tôi tạm dùng thuật ngữ ý thức hệ Nho giáo thay vì học thuyết chính trị Nho giáo để nó tương ứng với các thuật ngữ hiện nay thường dùng như ý thức hệ Mác – Lênin, ý thức hệ tư sản, tức là tạm tách chúng ra khỏi các bình diện tư tưởng và đạo đức trong các học thuyết đó.

Nho giáo đặt ra những tam cương, ngũ thường, ngũ luân,… để tạo ra các rường mối xã hội chặt chẽ mà thực chất cuối cùng chỉ để đặt ông vua làm chủ nhân của đất nước. Các quan chỉ tuân theo lệnh vua, còn “thần dân” thì tuân lệnh các quan. Nói cách khác, chỉ có nhà vua là “công dân đích thực”, còn tất cả đều là nô lệ. Trong xã hội ấy, quyền (cũng như ơn huệ) đều từ trên ban xuống và người dưới chỉ có thực hiện, chứ không có chiều ngược lại. Cho nên nếu may mắn gặp được “vua thánh tôi hiền”, biết “chăn dân” (tương tự như chăn đàn cừu) thì dân được nhờ, còn nếu vua quan bạo ngược thì dân cũng không có quyền chống lại.

Các triều đại phong kiến thường tuyên truyền rằng xã tắc là của “tiền vương”, “tiền triều” của họ để lại. Đó chẳng qua là một cách đánh tráo. Các sỹ phu Nho học đầu thế kỷ XX đã đặt ngược lại: người dân mới chính là chủ nhân của đất nước. Bởi vì chính nhân dân là người xây đắp nên đất nước. Phan Bội Châu viết: “Phát cây bụi lá gai góc, khó nhọc để mở ra thế giới này, không phải là tay chân của hàng nghìn vạn người chúng ta chăng? Sớm chuyên chở, chiều chuyên chở đất cát để lấp kín khe núi kia, không phải là máu mỡ mồ hôi của tổ tiên hàng nghìn vạn người chúng ta chăng? Tổ tiên ta đem nước để lại cho con cháu. Ta là con cháu, ta nhận nước ở tổ tiên ta. Nước vốn là gia tài của dân ta”.

Các sỹ phu cũng thấy rõ nền chính trị toàn trị của nhà nước phong kiến là nguyên nhân của mọi thối nát, từ cung đình cho đến dân gian. Con người quen sống trong phục tùng và sự sợ hãi, trở nên ngu hèn, mất cả khả năng nhận thức:

Quyền dân chủ trên đầu ức chế

Trải nghìn năm dân trí còn gì.

(Phan Bội Châu)

Vì dân không có quyền gì trên chính đất nước của mình cho nên tất nhiên cũng thờ ơ với vận mệnh đất nước; chưa kể, còn quay lại xâu xé nhau vì những cái lợi nhỏ nhen: “Suốt cả thành thị cho đến hương thôn, đứa gian giảo thì như ma, như quỷ, lường gạt, bóc lột, cái gì mà chẳng dám làm; đứa hèn yếu thì như lợn như bò, giẫm cổ đè đầu cũng không dám ho he một tiếng. Cả mấy mươi triệu người như một đàn ruồi lũ kiến, không còn chút nhân cách nào” (Phan Châu Trinh).

Ngày nay ta đưa khẩu hiệu “dân giàu, nước mạnh”, còn các chí sỹ thời ấy dùng “dân mạnh”, “dân khôn”, thiết nghĩ là chính xác hơn. Dân giàu chưa chắc đã là “dân mạnh” và dân giàu chưa chắc đã làm cho nước mạnh (nếu ý thức công dân kém, nếu sống bo bo, ích kỷ thì chỉ có hại cho đất nước). “Dân mạnh” trước hết là mạnh về ý chí, mạnh về tri thức, mạnh về nghề nghiệp, sau đó mới là mạnh về sản nghiệp. Quan hệ dân – nước là quan hệ:

Nước muốn mạnh thời dân phải mạnh

Dân có khôn thời nước mới khôn.

(Thơ Đông Kinh nghĩa thục)

Nếu công cuộc duy tân thắng lợi thì hình ảnh đất nước ta sẽ là hình ảnh một xã hội dân trị(chữ thời đó thường dùng để phân biệt với quân trị). Phan Bội Châu viết: “Sau khi đã duy tân rồi thì dân trí sẽ được mở mang, dân khí sẽ lớn mạnh, dân quyền sẽ phát đạt, vận mệnh nước ta do dân ta nắm giữ. Giữa đô thành nước ta đặt một toà nghị viện lớn. Bao nhiêu việc chính trị đều do công chúng quyết định. Thượng nghị viện phải đợi trung nghị viện đồng ý, trung nghị viện phải đợi hạ nghị viện đồng ý mới được thi hành. Hạ nghị viện là nơi đa số dân chúng có quyền tài phán việc của trung nghị viện và thượng nghị viện. Phàm là dân nước ta, không cứ sang hèn, giàu nghèo, lớn bé đều có quyền bỏ phiếu bầu cử. Trên là vua nên để hay truất, dưới là quan nên thăng hay giáng, dân ta đều có quyền quyết đoán cả”.

2. Từ bỏ đặc quyền đặc lợi của chính mình – một giai cấp đã từng “ăn trên ngồi trốc” suốt một nghìn năm

Bác bỏ ý thức hệ Nho giáo, đề cao dân quyền, các sỹ phu Nho học thời đó cũng đương nhiêntự tước đi quyền và lợi của mình. Bởi vì cho đến lúc đó, tuy chủ quyền quốc gia đã mất nhưng bộ máy phong kiến vẫn được duy trì. Các sỹ phu thời ấy vẫn thoải mái ăn trên ngồi trốc, vinh thân phì gia nếu muốn. Thực tế trong số họ cũng đã có người đỗ đạt cao, có thể nhận lấy sắc phong của vua (hay của quan toàn quyền, thống sứ) để ra làm quan (một số đã từng ra làm quan như Nguyễn Thượng Hiền, Phan Châu Trinh,…) nhưng họ đã chọn con đường dấn thânvì đất nước. Những hoạt động cách mạng của họ, chưa kể nỗi nguy hiểm do chính sách đàn áp của thực dân và phong kiến (hàng loạt chí sỹ đã bị giết hoặc bị tù đày), mà nếu thành công thì cũng không phải để họ “được làm vua”, mà để xây dựng một chế độ xã hội hoàn toàn khác: chế độ dân trị (dân chủ). Người nhà nước, theo quan niệm của các sỹ phu, chẳng qua là những người được nhân dân thuê mướn để quản lý xã hội: “Than ôi, nước không phải là gia tài tổ nghiệp của dân ta hay sao? Dân nước ta không phải là chủ nhân đời đời giữ gia tài tổ nghiệp này chăng? Sao dân ta lại bỏ cái quyền làm chủ nhân, bỏ cái chức trách làm chủ nhân của mình? Đem sự mất còn hưng phế của cái gia tài tổ nghiệp gửi cho bọn nhân công được thuê mướn để trông nom, không những không thể khiến gia tài tổ nghiệp mãi mãi do mình thừa kế, mà lại còn không cả gia tài tổ nghiệp này phải thuộc về mình” (Phan Bội Châu).

Dân quyền như vậy là một quyền hết sức tự nhiên, không phải do giai cấp thống trị ban phát. Xem thế thì các cụ đã “phản bội” lại quyền lợi của giai cấp của mình, nhưng đó là sự “phản bội” vĩ đại, là “cái gì của Xê-da trả lại cho Xê-da”.

Một loại đặc quyền khác của nho sỹ trong chế độ quân trị là danh vọng, mà thực ra phần nhiều là hư danh. Các sỹ phu đương thời cũng ném con mắt khinh bỉ vào các thứ hư danh đó: “Người trong nước (quân trị) không cần nhân cách, không cần học thức, không cần làm sự nghiệp gì, chỉ tính sao mua được chút quan, nho nhỏ cũng được chút phẩm hàm (…). Những nước ấy thì trong nước nó chỉ lủng củng có quan với phẩm hàm thôi, chứ có nhân vật gì nữa đâu, nước nó thường bị mất trước hơn mọi nước” (Ngô Đức Kế).

Còn có một thứ đặc quyền nữa cũng bị các cụ lên án gay gắt là đặc quyền “yêu nước”. Chế độ quân chủ “cấm học trò và dân không được nói đến chính trị”, vì “biết chính trị nhiều thì sinh ra cách mạng” (Phan Châu Trinh). Nhưng hậu quả là đặc quyền ấy quay trở lại tiêu diệt chính nó: “Có hay đâu giữ khéo quá thì dân trong nước nó ngu, không động đến ngôi vua thật, mà các nước ngoài họ tới họ lấy thì dễ như chơi, nghĩa là dân nó ngu, nó không biết nước là cái gì nữa cả. Ta thử xem gương nhà Tống trước thì mất với Liêu, sau mất với Kim, rồi sau mất với Mông Cổ; còn nhà Minh thì lại mất với Mãn Châu, Cao Ly thì mất với Nhựt Bổn, An Nam thì mất với Tây” (Phan Châu Trinh).

3. Đón nhận những gì tiến bộ đến từ phía kẻ thù với một tinh thần cầu thị cao

Ban đầu, người phương Tây đến nước ta để buôn bán, chưa phải là kẻ thù. Nhưng vua quan nhà Nguyễn theo thói quen kỳ thị của Nho giáo hủ lậu và cũng học đòi các vua chúa Trung Hoa, tự coi mình là “văn minh” mà miệt thị người Tây là “di”, “rợ”, nên đã thi hành chính sách “bế quan toả cảng” với họ. Thậm chí khoa học, kỹ nghệ, máy móc của phương Tây cũng bị coi là là thứ “quỷ thuật”, “cơ xảo”, có thể làm hỏng đạo Thánh hiền! Về sau, phải đương đầu với sức mạnh của họ thì lại quá sợ hãi, vào trận chưa đánh đã bỏ chạy, cuối cùng triều đình bó tay đầu hàng (khi chưa đến mức phải đầu hàng). Và khi thua rồi thì không tìm căn nguyên, lại đổ cho “mệnh trời”, cho “khí số” đã hết.

Nhưng đến thế hệ các sỹ phu đầu thế kỷ XX, nhờ đọc tân thư, nhờ độc lập suy nghĩ,  họ hiểu ra căn nguyên vì sao mà Tây thắng ta thua. Ấy là chỉ bởi cái nguyên lý “ưu thắng liệt bại” (mạnh được yếu thua) của cuộc cạnh tranh sinh tồn tất yếu này. Nhưng vì sao người Âu mạnh giỏi mà ta yếu hèn? Văn minh tân học sách (một bài trong sách giáo khoa của Đông Kinh nghĩa thục thời đó) cắt nghĩa (tóm tắt) như sau:

Thứ nhất, về tư tưởng, văn minh châu Âu lấy nguyên lý động làm nguyên lý tồn tại và phát triển. Muốn động thì phải khuyến khích sự tương phản (đối lập): “Thế nào là ảnh hưởng tương phản? Xét ra các nước châu Âu, trên có nghị viện duy trì quốc thị, dưới có báo quán để đạo đạt hạ tình. Đại trước tác thì có Dân ước của Lư Thoa (Khế ước xã hội của Rousseau), Tiến hoá luận của Tư Tân Đắc (Spencer), Dân quyền thiên của Mạnh Đức Tư Cưu (Bàn về tinh thần pháp luật của Montesquieu). Suy rộng ra, nào diễn thuyết, nào thi ca, đều cốt để phát huy cái chủ nghĩa yêu nước, yêu nòi giống. Nước ta có thế không? Làm văn sách thì chỉ sợ phạm huý, dâng thơ cho người trên thì chỉ e phạm tội vượt phận nói leo, chỉ chừng đó là đã khác hẳn (các nước) không cấm (nhân dân) bàn bạc”.

Thứ hai, về chính trị, “Người châu Âu họ tổ chức chính quyền trong nước có chính thể lập hiến, có chính thể quân dân cộng hoà. Có số bao nhiêu người đấy thì cử một người làm nghị viên. Hễ bàn đến một việc gì thì trước phải khai hội, kẻ bàn người nói, sớm sửa đi chiều sửa lại, cốt làm cho đúng chân lý, hợp với tình hình. Nước ta có thế không? Hành chính thì cấm thay đổi, sửa sang; dùng người thì quý sự im lìm, lặng lẽ; chiếu theo lệ cũ, nhưng lệ không nhất định; luật cũng có ban bố đấy, nhưng dân gian không được đọc luật”.

Thứ ba, về văn hoá – tinh thần, “Người Âu cho nước và dân là có quan hệ mật thiết với nhau. Cho nên có chính thể cộng hoà, mà quốc thể tức là gia thể; có tục thượng võ mà quốc hồn tức là gia hồn; có lệ hỗ trái (cho vay), mà quốc mạnh tức là gia mạnh; có lối kiêm biện (công chức được giao phụ trách một số công việc nhất định), mà quốc sự tức là gia sự; có phái tự do, mà quốc quyền tức là gia quyền. Nước ta có thế không? Ngoài văn chương, không có gì là quý; ngoài áp chế  không có gì là tôn chỉ; ngoài phục tòng không có gì là nghĩ xa”.

Trên nguyên lý đó, các sỹ phu Nho học kiên quyết đoạn tuyệt với nền học “chi hồ giả dã”, cái nền học đã làm cho “người ngu nước yếu”, và họ ra sức cổ vũ học theo văn minh phương Tây:

Văn minh ta phải học khôn

Theo thầy Anh, Pháp, noi gương Hoa Kỳ

Trăm nghề học, học chi cũng học

Học thiên văn rồi học địa dư

Học toán pháp, học binh thư…

(Khuyết danh, Quảng học vấn)

Và trước ta, những nước học theo phương Tây đều trở nên văn minh:

Xiêm La trước thiệt là ngu dại

Rước thầy Anh học mãi khôn

Bây giờ dân đã tỉnh hồn

Lá cờ độc lập, gió còn phất phơ

Nhật Bổn nọ thuở vừa ngu nhược

Kén người đi các nước học hành

Bây giờ dân đã văn minh

Tiếng anh hùng đứng một mình cõi Đông…

(Khuyết danh, Quảng học vấn)

Thực ra để đoạn tuyệt cái quá khứ vàng son của mình, các cụ cũng đầy trăn trở, thậm chí đau đớn. Trước đó chưa lâu (cuối thế kỷ XIX), các cụ Nho học của ta còn tẩy chay tất cả những gì thuộc về “Tây dương”: không cho con đến trường Tây, không dùng dầu tây (dầu hoả), mạt sát những công chức làm cho sở Tây dám cả gan “vứt bút lông đi giắt bút chì”,… Ngoài ra, những con người vốn nhiều đời lặn lội trong “rừng Nho biển Thánh” (Rừng Nho biển Thánh mênh mông/ Dễ ai lặn lội cho cùng vậy vay – Nguyễn Đình Chiểu”), nay đến với nền tư tưởng và học thuật mới, cũng chẳng dễ gì tiếp thu. Thế nhưng để cứu nước cứu đời, các cụ đã phải chấp nhận những cái vốn không thể chấp nhận. Ngoài chấp nhận những điều nói trên, có thể còn phải kể cái khó chấp nhận nữa là chấp nhận quy luật cạnh tranh, vì nó rất “nghịch” với đạo Thánh hiền. Văn minh tân học sách viết: “Văn minh (hay phát triển) không phải chỉ có thể mua bằng giá trị mà thôi, mà còn phải mua bằng đau khổ nữa. Giá trị là gì? Tức là tư tưởng. Đau khổ là gì? Là cạnh tranh. Càng tư tưởng thì càng cạnh tranh, càng cạnh tranh thì càng tư tưởng. Rồi do đấy, hết thảy các khoa thanh học, quang học, trọng học, điện học (…) không môn học nào là không phừng phực nảy ra. Lý do để đi tới chỗ cực điểm của văn minh là như thế đó”.

Nếu xét một cách cục bộ thì các phong trào vận động canh tân đất nước đầu thế kỷ XX đều thất bại. Tuy nhiên, xét đóng góp của nó trong tiến trình lịch sử Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX, thậm chí đến tận thời điểm này, thì không hẳn là thất bại, mà có lẽ chỉ nên nói là thành công không mỹ mãn. Có thể nói như vậy, vì các phong trào ấy đã tạo ra cơ sở và lực đẩy để xã hội Việt Nam bước vào thời kỳ hiện đại, hội nhập với thế giới văn minh. Thực tế ta thấy từ những năm sau Thế chiến thứ nhất, tận dụng chính sách khai thác thuộc địa, tận dụng sách lược “hợp tác với người bản xứ” (tức “Pháp Việt đề huề”) của người Pháp, người Việt Nam, mà tiên phong là đội ngũ trí thức cũ nói trên (sỹ phu Nho học, sau này gọi là cựu học) cùng với các trí thức mới (tân học) đã chủ động nắm lấy cơ hội này để phát triển. Đường sắt, bưu điện, ngân hàng, trạm khí tượng, nhà máy, hải cảng, báo chí, trường đại học, viện nghiên cứu,…. ra đời và từ đó kéo theo sự ra đời của nhà tư sản (bây giờ gọi là doanh nhân); ra đời các ông phán, ông ký, ông thông; các bác sỹ, luật sư, kỹ sư, nhà báo, nhà văn, nhà giáo,… Nếu cứ nhất nhất tẩy chay người Pháp hoặc ngược lại, chỉ biết cúi đầu làm cu-li cho họ thì chắc cho đến năm 1945, đất nước ta vẫn không có gì. Nhưng dân tộc ta, dẫn đầu là tầng lớp trí thức, vừa vẫn tiếp tục chống thực dân Pháp lại vừa chủ động nắm lấy văn minh Pháp, hợp tác với những người Pháp tiến bộ và kết quả là đẩy xã hội Việt Nam phát triển hết sức mau lẹ. Lòng yêu nước, tinh thần dân tộc cũng  theo đó mà trưởng thành. Các yếu tố này đóng góp quan trọng vào thắng lợi của cuộc Tổng khởi nghĩa tháng 8-1945. Chưa kể, khi vừa giành chính quyền, ta có ngay những cơ sở vật chất cần thiết cùng đội ngũ các nhà chuyên môn làm rường cột cho đất nước những năm đầu độc lập và kháng chiến chống Pháp.

Thưa quý vị Trung ương

Đảng Cộng sản Việt Nam đã từng là ngọn cờ tiên phong trong phong trào giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp cần lao. Trong quá trình ấy, Đảng có lúc phải tận dụng ngọn cờ chủ nghĩa Mác – Lênin và CNXH. Đến nay những thứ này đã tỏ ra sai lầm và bất cập và do đó, đặt Đảng vào tình thế tiến thoái lưỡng nan. Chúng tôi thực sự thông cảm điều đó. Nhưng nếu cứ tiếp tục độc tôn chủ nghĩa Mác – Lênin (một thứ học thuyết nhiều sai lầm, hoang tưởng), nếu cứ tiếp tục xây dựng CNXH (một mô hình đầy phi lý, trái quy luật), nếu cứ tiếp tục tẩy chay thế giới phương Tây (một chủ trương đi ngược thời đại, vì thực chất thế giới phương Tây là những mô hình xã hội dân chủ, chí ít cũng văn minh, tiến bộ hơn ta nhiều lần) thì chỉ tiếp tục đưa dân tộc – và cả Đảng – vào chỗ bế tắc. Trước mắt, sự suy yếu của nước ta thực sự đang trở thành miếng mồi ngon cho một đế quốc đang trỗi dậy đầy tham vọng: đế quốc Trung Hoa. Nước mất thì Đảng cũng không còn, hoặc may mắn lắm thì cũng chỉ được cái hư vị như triều đình nhà Nguyễn dưới thời cai trị của thực dân Pháp mà thôi. Chúng tôi nói “may mắn lắm”, vì khả năng được như triều Nguyễn cũng khó. Người Pháp chiếm Việt Nam không cần tiêu diệt văn hoá Việt Nam; trái lại, còn giúp người Việt Nam bảo tồn văn hoá (trước Cách mạng có Viện Viễn Đông Bác cổ ở Hà Nội, có Hội Đô thành Hiếu cổ ở Huế,…) như muốn tăng sự đa dạng văn hoá cho chính quốc. Còn người Trung Quốc là hàng xóm của Việt Nam; họ không chỉ muốn nô dịch dân ta mà còn muốn thôn tính lãnh thổ nước ta, biến nước ta thành quân huyện của Trung Quốc. Bởi vậy, trong lịch sử, mỗi khi chiếm được nước ta, họ đều thi hành chính sách đồng hóa dã man và thâm độc nhằm xoá bỏ văn hoá, lịch sử và giống nòi dân tộc Việt Nam. Chính sách này cũng đã từng áp dụng đối với nhiều nước bị họ thôn tính.  

Thiết tưởng nhân dân Việt Nam sẵn sàng ủng hộ Đảng tiếp tục lãnh đạo đất nước, nếu Đảng tự “lột xác”, tự “thay máu” để trở về với nhân dân, với dân tộc. Thực chất thì Đảng cũng đã từ bỏ một nửa chủ nghĩa Mác – Lênin và CNXH khi chấp nhận kinh tế thị trường. Chấp nhận kinh tế thị trường cũng là chấp nhận dân chủ trong kinh tế, nay chỉ còn một nửa còn lại là chấp nhận dân chủ trong chính trị. Nhưng chính sự nửa vời này đã dẫn đến tình trạng “đầu Ngô mình Sở”: kinh tế thị trường, vận hành theo nguyên lý thị trường nhưng bên trên lại là nhà nước XHCN, vận hành theo nguyên lý XHCN. Điều đó trái hẳn với nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lênin: thượng tầng kiến trúc (chính trị) phải phù hợp với hạ tầng cơ sở (kinh tế). Cốt lõi của kinh tế thị trường là tự do cạnh tranh, lẽ ra nó phải đi kèm với nhà nước pháp quyền, xã hội dân sự và tự do báo chí, tự do ngôn luận để đặt nền kinh tế tự do cạnh tranh trong vòng kiểm soát của pháp luật và công luận. Thế nhưng trong thể chế “Đảng lãnh đạo”, thực chất là Đảng toàn trị, đã làm cho các yếu tố sau không thể nào có được (hoặc có một cách hình thức). Kẻ có tiền và kẻ có quyền tất nhiên sẽ “đi đêm” (và cả “đi ngày”) với nhau mà không ai làm gì được. Đó là cội nguồn của tham nhũng, của lạm quyền, của tội ác và của tất cả các tệ nạn xã hội. Tất nhiên xã hội nào cũng có các hiện tượng này, nhưng ở ta khác họ ở chỗ là nó gần như vô phương cứu chữa.

Vừa qua chúng tôi đã thất vọng qua các Hội nghị BCH Trung ương 4, 5, 6; mới đây,  lại thêm thất vọng qua phát biểu khai mạc của ông Tổng bí thư tại Hội nghị BCH Trung ương 7 khi thấy chủ trương vẫn giữ nguyên tinh thần cũ, chỉ có điều chỉnh nhỏ. Tuy vậy chúng tôi vẫn hy vọng vào trí tuệ của đông đảo Ban Chấp hành Trung ương, ở đó có nhiều vị sống gần dân hơn, thực tế hơn; ở đó, vẫn còn nhiều vị có trình độ và có trách nhiệm. Lịch sử mấy chục năm qua đã chứng minh, nếu ở trên thượng tầng có ông Trường Chinh bảo thủ, cứng nhắc, thì ở tỉnh vẫn có ông Kim Ngọc thương dân, dám vượt rào. Và ngày nay vẫn thấp thoáng những Kim Ngọc ở các ông (bà) Nguyễn Thị Bình, Nguyễn Văn An, Nguyễn Minh Nhị,…

Đề cập lớp nhà Nho tiên phong đầu thế kỷ XX làm bài học cho Đảng CSVN hôm nay, chúng tôi cũng mới chỉ đề cập tinh thần đổi mới nói chung, còn về cách cách thức đổi mới, nếu Đảng chấp nhận, tôi nghĩ sẽ có những chuyên gia vạch ra lộ trình cụ thể. Tinh thần đổi mới tóm lại là tinh thần cầu thị, sẵn sàng từ bỏ tất cả những gì cũ nát, bảo thủ, hoang tưởng, đặc biệt, dámtừ bỏ những đặc quyền đặc lợi phi lý của mình. Nếu đặt Tổ quốc và nhân dân lên trên hết thì không có gì không thể vượt qua. Nếu làm được điều đó, Đảng không những vẫn tiếp nối được sự nghiệp cao cả của thế hệ các nhà cách mạng cộng sản đầu tiên mà còn cứu được nguy cơ Đảng sụp đổ.

Do khuôn khổ một bức thư, chúng tôi không thể phân tích và biện luận đầy đủ, mà chủ yếu nêu lên vấn đề. Hy vọng sẽ được trao đổi dân chủ và cởi mở.

Đào Tiến Thi

(Ngọc Hà, đầu tháng 5-2013)

Suy nghĩ về vai trò của trí thức hôm nay

Tiêu chuẩn

Suy nghĩ về vai trò của trí thức hôm nay

Đào Tiến Thi- NXD

92

Hai vai tơ tóc bền trời đất
Một gánh cương thường nặng núi sông
(Phan Văn Trị)
Sau hôm Nguyễn Chí Đức bị đánh (do đi dự phiên toà “công khai” xử Đoàn Văn Vươn), tôi gọi điện hỏi thăm. Dù đang bị đau cả thể xác lẫn tinh thần nhưng Chí Đức chỉ nói qua về mình, còn chủ yếu anh đề cập các vấn đề của đất nước với một nỗi lo lắng khôn nguôi. Cuối cuộc nóichuyện, Chí Đức buồn bã bảo tôi: “Em sợ rằng trong khoảng 5 năm nữa, lớp các bác nhân sỹ, trí thức lớn hôm nay sẽ vãn đi hoặc là đã quá già mà không có lớp kế tục. Nếu chỉ có những người như bọn em thì dầu có hăng hái cũng chẳng mấy tác dụng”.

Nỗi lo của Chí Đức cũng là nỗi lo của tôi. Thực ra thì đội ngũ trí thức có tinh thần phản biện, đóng góp vào công cuộc tiến bộ xã hội và bảo vệ đất nước vẫn không ngừng tăng lên, nhưng những người có uy lực thì vẫn là số ít. Ấy là những bậc trí thức vốn trước đó có một vị thế nhất định ở “lề phải”. Khi tham gia “lề trái – lề dân”, họ có sức mạnh riêng, nhưng họ lại phải hai lần dũng cảm để bước qua: trước khi chấp nhận những phiền toái, tai ương đến với mình, họ phải chấp nhận từ bỏ hầu hết những bổng lộc đã có.

Cho nên ngoài số vẫn đang trong cơn mê dài (mê danh, mê lợi, mê quyền lực, mê bổng lộc bề trên) đáng khinh bỉ, thì thật cũng khó mà trách những người biết cả nhưng lẩn tránh trách nhiệm xã hội, rút vào “tháp ngà khoa học” hoặc phiêu du tháng ngày.
Cũng từ vấn đề Chí Đức đặt ra, tôi bất giác nghĩ đến tình huống nếu bây giờ Trung Cộng tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược thì liệu dân tộc này đã chắc gì làm được một cuộc kháng chiến như triều Nguyễn nửa cuối thế kỷ XIX? Cuộc kháng chiến ấy, theo hình dung của nhà thơ Bế Kiến Quốc:
Thuở ấy non sông lâm trận giặc
Pháo mã bâng khuâng lạc thế cờ
Vua thì nhu nhược, triều đình nát
Lòng ai trung nghĩa hoá bơ vơ.
Thực tế thuở ấy, tuy rằng vua (Tự Đức) nhu nhược, tuy rằng kháng chiến một cách cầm chừng nhưng vẫn còn là kháng chiến. Đặc biệt thuở ấy có tầng lớp văn thân, sỹ phu là linh hồn của cuộc chiến tranh giữ nước, dù có thể không trực tiếp tham gia đánh giặc.
Đốc học Nam Định Phạm Văn Nghị (1805 – 1880) vốn sức yếu nhưng nghe tin Pháp đánh Đà Nẵng (1858), đã tự chiêu mộ trong đám học trò và thanh nhiên yêu nước được một đội quân 300 người xin vua đi chiến đấu. Vào đến Huế thì quân Pháp đã rút khỏi Đà Nẵng, vào đóng quân ở Gia Định; ông lại xin vào Gia Định nhưng Tự Đức bắt ông trở về (vì triều đình đang muốn “hoà” với giặc Pháp).
Trương Định (1820 – 1864) vốn chỉ là một quản cơ đồn điền – một chức nhỏ trong quân đội làm nhiệm vụ chiêu mộ dân nghèo đi khai hoang, gặp lúc đất nước có giặc đã tự chiêu mộ được 6000 nghĩa binh, đánh địch suốt vùng Gò Công – Tân An. Khi triều đình Huế ký hoà ước Nhâm tuất (1862), yêu cầu ông bãi binh, ông đã nói một câu nổi tiếng: “Triều đình Huế không nhìn nhận chúng ta, nhưng chúng ta cứ bảo vệ Tổ quốc chúng ta”[1].
Nguyễn Đình Chiểu (1822 – 1888) là nhà thơ chiến sỹ vẫn còn phảng phất hào khí Đồng Nai thời đi mở đất. Suốt từ những ngày đầu Pháp đánh Gia Định cho đến khi vua Hàm Nghi bị bắt (1888), thơ văn ông là nguồn cổ vũ to lớn đối với cuộc chiến đấu của nhân dân Lục tỉnh.
Phan Văn Trị (1830 – 1910) đỗ đạt, tài cao nhưng gặp buổi loạn không ra làm quan, ở nhà dạy học và bốc thuốc, đồng thời chiến đấu bằng ngòi bút trong cuộc Nam Kỳ kháng chiến. Ông nổi tiếng với 10 bài hoạ để đập lại Tôn Thọ Tường – một trí thức có tài nhưng thân Pháp, tuyên truyền cho tư tưởng đầu hàng.
Hoàng Diệu (1828 – 1882) là một quan văn, nhưng ngay khi nhận chức tổng đốc Hà Nội (1880) đã ra sức lo bố phòng, chuẩn bị đánh giặc. Trong cuộc giữ thành ngày 25-4-1882, ông là người trực tiếp chỉ huy chiến đấu cho đến khi vỡ trận (trong khi các quan võ dưới quyền ông bỏ chạy ngay từ phút đầu). Trước khi thắt cổ tự tận, ông để lại bức Di biểu đầy huyết lệ: “Thành mất không sao cứu được, nghĩ thẹn với nhân sỹ đất Bắc lúc sinh thời. Thân chết có quản gì, nguyện theo Nguyễn Tri Phương xuống đất”.
Nguyễn Trường Tộ (1830 – 1871) vừa là nhà Nho, vừa là một người Công giáo, một người hiểu biết thế giới phương Tây, cho nên liên tiếp đưa ra các kiến nghị nhằm chấn hưng đất nước. Nếu vua Tự Đức nghe theo ông thì không những nước ta thoát khỏi cuộc nô dịch của thực dân Pháp, mà có thể thoát cả đêm trường trung cổ[2]. Làm phiên dịch trong các cuộc đàm phán giữa triều Nguyễn với thực dân Pháp, nắm rõ tình hình quân Pháp, lại nhằm đúng lúc Pháp bối rối trong chiến tranh Pháp – Phổ (1870 – 1871), ông đã vạch ra kế hoạch đánh úp Gia Định để lấy lại Nam Kỳ, nhưng tiếc rằng kế hoạch chưa được duyệt thì ông mất.
Nguyễn Lộ Trạch (1853 – 1895), cũng giống như Nguyễn Trường Tộ, luôn luôn đưa ra kiến nghị mong triều đình Huế thực thi cải cách. Trong Thời vụ sách (Kế sách đối với thời cuộc), ông đề ra một loạt biện pháp cấp bách để phòng thủ và phát triển đất nước, trong đó có việc đưa con em tài giỏi ra nước ngoài học khoa học thực nghiệm và cơ khí phương Tây, mở rộng ngoại giao với các nước châu Âu, nhất là Đức và Anh để kiềm chế Pháp. Trong khi triều Nguyễn cứ loay hoay lo đi chuộc lại Lục tỉnh (Nam Kỳ) thì theo Nguyễn Lộ Trạch, Lục tỉnh có thể lấy lại nếu thế nước mạnh lên và nhất là từ nay đừng để xảy ra sự việc như Lục tỉnh nữa.
Sơ qua một vài gương “trung nghĩa hoá bơ vơ” như trên để thấy cái không khí bi thương nhưng anh dũng của dân tộc ta thời ấy, đồng thời cũng thấy rằng họ không hẳn đã “bơ vơ”. Phải nói rằng, dù vua quan nhà Nguyễn hèn nhát, từng bước bán rẻ cơ đồ cho ngoại bang, nhưng nhân dân và văn thân, sỹ phu ta đã làm cho thực dân Pháp phải lao đao khốn đốn. Chúng phải mất 25 năm (1858 – 1883) mới cơ bản chiếm xong nước ta và sau đó còn phải mất gần 30 năm nữa để “bình định”. Bởi sau khi nhà vua 14 tuổi Hàm Nghi xuất bôn và xuống chiếu Cần vương (1885) thì cả nước lại bùng lên một phong trào kháng chiến sôi nổi, mạnh mẽ chưa từng thấy, kéo dài cho đến tận những năm cuối cùng của thế kỷ XIX.
Các văn thân, sỹ phu thuở ấy đều xuất thân Nho học. Tuy rằng học thuyết Nho giáo đến lúc này đã trở nên bảo thủ, bất cập với thời đại, nhưng bù lại, ý thức trách nhiệm với đời do Nho giáo hun đúc cộng với lòng yêu nước nồng nàn đã cho họ tầm vóc của những người trượng phu của thời đại. Nhiều văn thân, sỹ phu đã hy sinh một cách lẫm liệt vì nghĩa lớn.
Còn bây giờ? Cứ tình hình này mà không được cải thiện thì khi Trung Cộng tấn công, kịch bản diễn ra sẽ hết sức tồi tệ, thậm chí chúng ta hôm nay có thể rất đáng xấu hổ với hậu thế. Tôi hình dung đó là cái cảnh trên “thượng tầng” thì “Ngọn cờ ngơ ngác trống canh trễ tràng”, còn bên dưới thì binh lính hoang mang, lòng dân ly tán. Lấy đâu ra những Trương Định, Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu, Tôn Thất Thuyết, Nguyễn Xuân Ôn, Phan Đình Phùng, Nguyễn Quang Bích,…?
Tất nhiên, ngày nay nếu “non sông lâm trận giặc” thì các nhân sỹ, trí thức không có lợi thế như các văn thân, sỹ phu thời trước: tất cả đều tay không tấc sắt. Chỉ có “ba tấc lưỡi” làm vũ khí duy nhất. Nhưng “ba tấc lưỡi” ở vào những tình thế khẩn cấp nhiều khi cũng không còn giá trị. Vậy thì phải làm gì? Câu trả lời là phải tích cực khai dân trí từ bây giờ. Phải cho đông đảo nhân dân ý thức được quyền và nghĩa vụ của mình đối với đất nước. Cách đây hơn 100 năm, Cụ Phan Bội Châu đã viết: “Nước vốn là gia tài của dân ta. Có cái gia tài không gì lớn bằng như thế, có một tổ nghiệp vô lượng vô biên như thế, mà ta nỡ bỏ hoang như ruộng đá (…) đem hết trách nhiệm mất còn của nước gửi gắm cho một số rất ít người, nào vua nào quan kia. Giặc đến chỉ hỏi vua và quan, còn ta chỉ nhởn nhơ trong cái vũng danh lợi của loài sên loài nhặng, vui thú trong cái chốn dục vọng ăn uống gái trai. Đến nỗi hỏi có nước không, nước còn không lại cứ mơ mơ màng màng không biết trả lời ra sao”. Xem thế thì đa số dân ta ngày nay “cổ hủ” biết bao khi vẫn nghĩ “đã có Đảng và Nhà nước lo”.
Cũng có một điều mừng là các bác trí thức – quan chức cũ đứng về phía “lề trái – lề dân” vẫn tiếp tục đông lên, trong đó có cả những “danh” lớn: Nghệ sỹ Kim Chi, TS. Nguyễn Đình Lộc (nguyên Bộ trưởng Tư pháp), Thiếu tướng công an Phạm Chuyên (nguyên Giám đốc Công an Hà Nội), nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm (nguyên Uỷ viên Bộ chính trị, Trưởng ban Tư tưởng Văn hoá Trung ương Đảng),… Chẳng có ai vận động được các bác cả. Mà chẳng qua là sự phản tỉnh, để rồi cuối cùng  trở về với nhân dân, với dân tộc. Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm có những vần thơ thật da diết, đặc biệt bài thơ mới đây: Đất nước những tháng năm thật buồn.
– Ai sẽ nắm vận mệnh chúng ta
Trong không gian đầy sợ hãi?
– Bây giờ lá cờ trên cột cờ Đại Nội
Có còn bay trong đêm?
Sớm mai còn giữ được màu đỏ?
Bây giờ con cá hanh còn bơi trên sông vắng
Mong gặp một con cá hanh khác?
Giá như sự phản tỉnh ấy đến với cả những người đương chức? Thì đất nước lo gì không có những Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch, Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu, Tôn Thất Thuyết, Phan Đình Phùng,…?
Non sông cứ mỗi ngày lại “lâm trận giặc” (cả “nội xâm” và ngoại xâm) sâu hơn.
Trước mắt, một mùa hè lại đang đến. Chẳng biết hè này Trung Cộng sẽ giở những chiêu trò gì nữa để tiếp tục áp chế chủ quyền của ta? Nhưng có một điều biết trước: Dù Trung Cộng ngang ngược đến đâu, Đảng và Nhà nước ta vẫn chủ trương “kiên quyết xử lý vấn đề tụ tập đông người ở Việt Nam với tinh thần không để sự việc tái diễn” như tướng Nguyễn Chí Vịnh đã hứa với Trung Cộng hồi mùa thu 2011, sau khi có hàng loạt cuộc biểu tình vào mùa hè năm ấy.
Và nhiệm vụ lại đặt trên vai các vị nhân sỹ, trí thức. Làm gì đây? Kiến nghị? – Không ai nghe. Biểu tình? – Bị cấm ngặt. Nhưng chẳng nhẽ bó tay? Không thể bó tay, bởi vì:
Một gánh cương thường nặng núi sông.
ĐTT
—————–
[1] Trong các sách giáo khoa ngày trước câu này là : “Triều đinh nghị hoà thì cứ nghị hoà, Định không nỡ ngồi nhìn giang sơn chìm đắm”.
[2] Trong Thiên hạ đại thế luận, những điều kiến nghị nhà nước phong kiến của Nguyễn Trường Tộ thật gần gũi chúng ta hôm nay. Ví dụ đoạn sau đây:
“Hiện nay tình hình trong nước rối loạn (…) tiền của sức lực của dân đã kiệt quệ, việc cung ứng cho quân binh đã mệt mỏi, trong triều đình quần thần chỉ làm trò hề cho vui lòng vua, che đậy những việc hư hỏng trong nước, ngăn chặn những bậc hiền tài, chia đảng lập phái khuynh loát nhau, những việc như vậy cũng đã nhiều; ngoài các tỉnh thì quan tham lại nhũng xưng hùng xưng bá tác phúc tác oai, áp bức tàn nhẫn kẻ cô thế, bòn rút mỡ dân, đục khoét tuỷ nước, việc đó đã xảy ra từ lâu rồi. Những kẻ hận đời, ghét kẻ gian tà, những kẻ thất chí vong mạng, phần nhiều ẩn núp nơi thảo dã, chính là lúc Thắng, Quảng sẽ thừa cơ nổi dậy. Thế mà sao đối ngoại thì không có cách nào để động đến một mảy may lông của quân Pháp, cũng chẳng thuyết phục được ai để giải vây cho, lại đi tàn sát dân mình, giận cá chém thớt, khiến cho dân bị cái hại “cháy nhà vạ lây”. Thật đúng như câu nói: “đào ao đuổi cá”, “nối giáo cho giặc”. Cây cối trước hết tự nó hủ mục sau mới bị sâu đục; nước mình trước hết không biết tự giữ thể diện thì người ta mới khinh mình; dân loạn bên trong, rồi kẻ địch mới nhân đó mà vào. Như thế loạn không phải chỉ từ bên ngoài mà ở ngay trong nước vậy. Than ôi! Dân chúng phụng sự quan trên, đóng thuế nạp tô, để mong được sống yên thân, thế mà bây giờ lại lấy những thứ nuôi sống người đó để làm hại người, nỡ khiến dân chúng vấp phải họa binh đao, nỡ tranh giành cái nhỏ mà bỏ cái lớn, cũng như muốn bảo tồn cành lá mà lại đem đẵn cả cội gốc. Cho nên mới nói: không sợ thế giặc ngang tàng mà sợ lòng người rời rạc. Lòng người đã rời rạc, đã muốn chóng mất, thì dù có thành trì bằng kim loại, có ao nước sôi cũng phải bỏ mà chạy, ai ở đó chịu chết mà giữ cho”.