Tag Archives: Điều 4 Hiến Pháp

NGUỒN GỐC THẬT SỰ CỦA ĐIỀU 4 HIẾN PHÁP

Tiêu chuẩn

NGUỒN GỐC THẬT SỰ CỦA ĐIỀU 4 HIẾN PHÁP

 

Lời dẫn: Trong bản chất phi nhân và bạo ngược của các đảng CS trên thế giới có nhiều điểm tương đồng với chế độ toàn trị Đức Quốc Xã. Điều 4 hiến pháp cũng phát xuất từ tư tưởng bệnh hoạn của trùm phát xít Hitler. Mời quý thính giả nghe phần bình luận của Đà Giang với tựa đề: “Nguồn gốc thật sự của điều 4 hiến pháp”, sẽ được Vân Khanh trình bày để kết thúc chương trình phát thanh tối hôm nay

***

Các nhà nghiên cứu chính trị thông thường cho là điều 4 hiến pháp hiến định hoá chế độ toàn trị tại VN, được phát xuất từ điều 6 hiến pháp năm 1977 của Liên Bang Xô Viết. Việc phân tích đuợc dừng tại đây vì họ nghĩ rằng, cả ông Hồ Chí Minh lẫn đảng CSVN đều tự cho mình là học trò ngoan của Stalin và đảng CSLX, nên không truy tầm xa hơn về xuất xứ của điều 4 hiến pháp.

Điều 4 hiến pháp Việt Nam ghi rằng: “Đảng cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác – Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội. Mọi tổ chức của đảng hoạt động trong khuôn khổ hiến pháp và pháp luật”

Rõ ràng điều 4 hiến pháp VN rất giống với điều 6 hiến pháp LX. Tuy nhiên, câu hỏi đặt ra là điều 6 hiến pháp của Liên Bang Xô Viết đích thực phát xuất từ đâu?

Tưởng cần nhắc đến 3 nhà độc tài khét tiếng nhất của thế kỷ 20: Đó là Lê Nin và Stalin của CSLX, và Hitler của Đức Quốc Xã. Lê Nin nắm quyền từ năm 1917 đến năm 1924. Sau đó Stalin lên kế vị cho tới năm 1953. Tại Đức, Hitler lên nắm quyền từ năm 1933 đến năm 1945. Khi nói đến các mốc thời gian, Hitler dường như có nhiều cơ hội học hỏi từ Lê Nin và Stalin về phương thức cai trị độc tài. Nhưng nếu nghiên cứu sâu hơn thì giả thuyết này không chính xác. Lê Nin là nhà độc tài đầu tiên đã tiêu diệt mọi đảng phái đối lập, xây dựng lên guồng máy mật vụ, và nắm quyền sinh sát trong tay mà không cần qua một hệ thống tư pháp nào.

Điều này không có gì lạ! Những hành động tương tự đã từng xảy ra thường xuyên trong lịch sử loài người, qua các cuộc tương tranh quyền lực và thay đổi triều đại. Khi Stalin lên nắm quyền ông vẫn theo đuổi các chính sách của Lê Nin. Tuy nhiên, sự khác biệt giữa Lê Nin và Stalin chỉ nằm ở mức độ tàn khốc và có tính đột biến.

Trong khi đó tại Đức, Hitler được bổ nhiệm làm thủ tướng (Chancellor) vào tháng Giêng năm 1933. Hitler đã thực thi chính sách xâm chiếm toàn bộ Âu Châu và chứng minh khả năng thống trị của mình bằng nhiều bước đi sáng tạo, mà chính Stalin và các lãnh tụ CS khác phải học hỏi. Hitler là nhà độc tài đầu tiên chính thức luật hoá sự độc đảng của chế độ Quốc Xã. Ngày 14/7/1933, Hitler công bố bộ luật 26 tháng 5. Điều khoản của bộ luật này ghi rõ vị trí độc tôn của Đảng Quốc Xã như sau:

“Đảng Quốc gia Lao động Xã hội Đức (viết tắt là Đảng Quốc Xã) là chính đảng duy nhất của nước Đức. Bất cứ ai nuôi dưỡng cấu trúc tổ chức một chính đảng khác hay thành lập một chính đảng mới, sẽ bị án chung thân khổ sai đến 3 năm hoặc bị giam cầm từ 6 tháng đến 3 năm, nếu hành vi này không bị chế tài nặng hơn bởi các sắc luật khác”

Trước đó vài ngày, Hitler tự tin tuyên bố trong một bài diễn văn rằng: “Tất cả mọi chính đảng đã bị hủy diệt. Đây là một biến cố lịch sử, mà ý nghĩa cũng như hậu quả chưa ai ý thức được trọn vẹn… Đảng đã trở thành nhà nước, và toàn bộ quyền lực thuộc về nhà nước”

Mặc dù Hitler không cần sắc luật trên để cai trị dân. Nhưng việc công bố sắc luật cho thấy một điều mà chưa nhà độc tài nào trên thế giới dám làm trước đó. Trong giai đoạn lịch sử này, Hitler vô hình trung được sự chú ý của một đệ tử được coi là giỏi hơn sư phụ: Đó là nhà độc tài CSLX Stalin. Ba năm sau, Stalin làm một điều mà chính Lê Nin chưa dám làm. Stalin đã bắt chước Hitler thông qua bản hiến pháp của Liên Bang Xô Viết, trong đó điều 126 hiến định hoá quyền độc tôn của đảng CSLX, nguyên văn như sau:

Đảng CSLX là: “Đội tiên phong của nhân dân lao động trong cuộc đấu tranh củng cố và phát triển hệ thống xã hội chủ nghĩa, là cốt lõi lãnh đạo tất cả mọi tổ chức nhân dân lao động và cả quần chúng lẫn nhà nước”

Đến năm 1977, điều 126 của hiến pháp Liên Bang Xô Viết được thay thế bằng điều 6 của hiến pháp mới như sau:

Đảng CSLX là: “Lực lượng lãnh đạo và hướng dẫn xã hội Xô Viết, là trọng tâm của hệ thống chính trị, mọi tổ chức nhà nước và tổ chức quần chúng. Đảng CSLX hiện hữu vì dân và phục vụ nhân dân. Đảng CSLX trang bị bởi chủ thuyết Mác – Lê, quyết định tổng quát đường hướng phát triển xã hội cho các chính sách đối nội và đối ngoại của Liên Bang Xô Viết, lãnh đạo công tác xây dựng vĩ đại của nhân dân Xô Viết, đem lại tính kế hoạch, hệ thống và nội dung lý thuyết cho công cuộc tranh đấu đem lại chiến thắng cho chủ nghĩa cộng sản. Mọi cơ cấu của đảng hoạt động trong phạm vi hiến pháp Liên Bang Xô Viết”

Dựa vào các sự kiện lịch sử, chúng ta có thể khẳng định là điều 4 hiến pháp mà Nguyễn Phú Trọng và đảng CSVN đang bám víu để sống còn chính là hiện thân của bộ luật Đức Quốc Xã, được Hitler công bố vào ngày 14 tháng 7 năm 1933 nhằm luật hoá sự toàn trị của Hitler và Đảng Quốc Xã. Đáng mừng cho dân tộc Đức là chế độ toàn trị của Đảng Quốc Xã chỉ tồn tại 12 năm. Nguyên khí của quốc gia này đã phục hồi nhanh chóng sau thế chiến thứ 2, mặc dù Đức là nước bại trận. Trong khi đó, chế độ tòan trị Lê Nin và Stalin tồn tại đến 70 năm làm tiêu diệt nguyên khí của dân Nga. Dân tộc Việt, qua 6 thập niên cũng tang thương không kém! Khác với Hitler, mọi người đã biết hậu quả khốc liệt của điều 4 hiến pháp. Đây chính là lúc tòan dân phải vùng lên để tiêu diệt độc tài và hủy bỏ điều 4 hiến pháp, hầu dọn đường cho một nền dân chủ chân chính trong tương lai.

Đà Giang

http://radiodlsn.com/index.php?option=com_content&view=article&id=1456:ngun-gc-tht-s-ca-iu-4-hin-phap&catid=35:binh-luan&Itemid=54

Tại sao nên bỏ điều 4 trong Hiến pháp? Việt Hoàng

Tiêu chuẩn

Tại sao nên bỏ điều 4 trong Hiến pháp? Việt Hoàng

 

Việt Hoàng (Danlambao) – Mỗi đảng viên cộng sản Việt Nam phải thấy xấu hổ trước những câu hỏi như: Tại sao một đảng cầm quyền với 3 triệu đảng viên và 68 năm cầm quyền lại không dám cạnh tranh với các đảng chính trị khác? Tại sao đảng cộng sản có hàng vạn tiến sĩ, thạc sĩ chính trị mà không dám đối thoại công khai với các nhà bất đồng chính kiến? Tại sao đảng cầm quyền lại phải dùng đến những thành phần xã hội đen để chống lại nhân dân, chống lại các tôn giáo…
*
Đảng cộng sản Việt Nam từ trước tới bây giờ vẫn “nhất quán” trong việc chống “diễn biến hòa bình”, chống “đa nguyên đa đảng”. Trong một lần tuyên bố với báo giới Ấn Độ, ông tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng lại khẳng định một lần nữa rằng Việt Nam không chấp nhận đa đảng.
Điều này nói lên điều gì? Đầu tiên, nó phản ánh là sự kém tự tin và sự tụt hậu của đảng cộng sản, một đảng đã ra đời 83 năm và đã có 68 năm cầm quyền, vẫn chưa đủ tự tin để cạnh tranh với các đảng phái khác. Có lẽ “đảng ta” nên chịu khó đem sách vở sang học lại người “học trò cũ”, tức thủ tướng Hun Sen của Campuchia.
Cho dù Campuchia vẫn còn nghèo khó, tham nhũng, bất công nhưng không ai bảo là Campuchia không có dân chủ. Hun Sen là người cộng sản duy nhất trên trái đất này có thể (hay phải) tự đổi mới mình và ông ta đã thành công. Trong bốn nhiệm kỳ, đảng của ông chiếm đa số trong các cuộc bầu cử từ trung ương đến địa phương. Ông ta cũng được đánh giá cao về lòng yêu nước qua việc kiên quyết bảo vệ chủ quyền biên giới trước Thái Lan, trong vụ tranh chấp ngôi đền Preah Vihear. Trong vụ ông nghị sĩ đối lập Sam Rainsy nhổ cọc biên giới với Việt Nam, ông Hun Sen cũng không hề lên tiếng. Cứ nhìn vào những hành động này, chúng ta không thể không buồn cho sự “yếu hèn” của chính quyền Việt Nam trước người láng giềng Trung Quốc. Thái Lan và Việt Nam chắc chắn mạnh hơn Campuchia nhiều lần, nhưng Hun Sen đã không hèn yếu và rồi cả Thái Lan lẫn Việt Nam đều chẳng làm gì được Hun Sen, ngoài vài lời phản đối lấy lệ của người phát ngôn Bộ ngoại giao.
Ngoài tấm gương Campuchia chuyển đổi từ độc tài sang thể chế dân chủ, còn hai tấm gương sáng cần tham khảo đó là trường hợp của Đài Loan và Hàn Quốc. Hai quốc gia này từng phải sống trong chế độ độc tài nhưng các thể chế độc tài cầm quyền đã chủ động chuyển sang thể chế dân chủ và bây giờ đã trở thành những quốc gia phát triển nhất ở Châu Á.
Mỗi đảng viên cộng sản Việt Nam phải thấy xấu hổ trước những câu hỏi như: Tại sao một đảng cầm quyền với 3 triệu đảng viên và 68 năm cầm quyền lại không dám cạnh tranh với các đảng chính trị khác? Tại sao đảng cộng sản có hàng vạn tiến sĩ, thạc sĩ chính trị mà không dám đối thoại công khai với các nhà bất đồng chính kiến? Tại sao đảng cầm quyền lại phải dùng đến những thành phần xã hội đen để chống lại nhân dân, chống lại các tôn giáo như vụ Bát Nhã và Tam Tòa? Tại sao phải dùng tin tặc để đánh phá các trang báo “lề Dân”?…
Không có tổ chức chính trị đối lập lương thiện nào (trong cũng như ngoài nước) đòi tiêu diệt hay xóa bỏ đảng cộng sản, họ chỉ đòi hỏi đảng cộng sản phải cạnh tranh một cách “đường đường, chính chính” với các tổ chức chính trị khác. Đây là một đòi hỏi đúng đắn và nghiêm túc. Đất nước là của chung, của toàn thể nhân dân Việt Nam nên nhân dân Việt Nam phải có quyền lựa chọn cho mình người lãnh đạo đất nước. Nếu đảng cộng sản với những cương lĩnh và hành động tiến bộ và nếu nhân dân vẫn tín nhiệm thì đảng cộng sản vẫn tiếp tục cầm quyền. Đơn giản chỉ có vậy.
Tôi tin rằng nếu có bầu cử dân chủ thì có thể đảng cộng sản Việt Nam vẫn có thể thắng cử và tiếp tục cầm quyền. Sửa đổi Hiến pháp, đảng lại kêu gọi nhân dân đóng góp ý kiến cho đảng. Đảng phải thay đổi, nhưng thay đổi cái gì và thay đổi thế nào là vấn đề cần bàn. Thay đổi đầu tiên và căn bản nhất, nếu đảng thật lòng muốn thay đổi và muốn tốt cho chính bản thân đảng và cho nhân dân thì đó phải là quyết tâm chuyển đổi từ thể chế độc đảng sang thể chế dân chủ. Nếu đảng vẫn không chấp nhận sự thay đổi này thì mọi thay đổi nếu có cũng chỉ là dầu bôi ngoài da cho căn bệnh đã ung thư.
Đảng cộng sản đang độc quyền lãnh đạo đất nước nên rất thuận lợi trong việc chuyển đổi sang hướng dân chủ, nếu thực hiện có lộ trình. Lộ trình đầu tiên là chấp nhận những tổ chức chính trị đối lập ôn hòa và xây dựng. Hoặc cho phép tách đảng ra thành hai đảng như đề nghị của cụ Trần Lâm (Hải Phòng). Cho phép những tờ báo của các tổ chức ôn hòa này hoạt động độc lập với thỏa thuận là các tờ báo này phản biện các vấn đề một cách nhẹ nhàng và mang tính xây dựng. Tăng cường việc trao đổi, đối thoại giữa các nhà lý luận của đảng với các nhà bất đồng chính kiến (hay đối lập) một cách cởi mở trên các phương tiện thông tin đại chúng. Phi chính trị hóa các chương trình giáo dục, từ phổ thông đến đại học. Cho phép báo chí tư nhân hoạt động, không can thiệp vào xã hội dân sự mà chỉ nên hỗ trợ trong bước ban đầu.
Đảng cần phải chấp nhận các nhà đối lập và bất đồng chính kiến, lắng nghe và hợp tác với họ thay vì bỏ tù họ. Những thành phần này và các tổ chức chính trị đối lập là tấm đệm để ngăn chặn các cuộc cách mạng đường phố và sự đổ vỡ khi có chính biến. Không khó khăn gì để đảng cộng sản nhận ra lực lượng chính trị đối lập nào là yêu nước, là mang tính xây dựng. Đảng phải chủ động đối thoại và trao đổi với các thành phần này để đi đến các thỏa hiệp chính trị.
Những người lãnh đạo đảng cộng sản chưa quen với sự cạnh tranh nên họ hay nghi ngại, nhưng thật ra “cạnh tranh” trong chính trị cũng không phải là gì quá ghê gớm hay quá khó, tất cả rồi sẽ quen đi và khi đã quen với sự cạnh tranh, nhất là lại chiến thắng trong các cuộc cạnh tranh đó thì họ sẽ thấy tự hào và sung sướng thật sự. Cái chính là họ sẽ có cảm giác thanh thản, tự tin thay vì lo lắng và bất lực như bây giờ. Thật lòng chúng ta thấy buồn và tội nghiệp cho các vị quan chức của Việt Nam khi xuất hiện và phát ngôn trước công chúng. Nói đâu sai đấy, và chỉ làm trò cười cho thiên hạ. Lỗi không hoàn toàn phải tại họ mà tại cơ chế độc đảng. Phải có sự cọ xát, sự cạnh tranh mới làm cho quan chức Việt Nam khôn ngoan, thông minh và tự tin hơn.
Để trở thành một chính trị gia thật sự thì điều đầu tiên phải chịu được đó là “chấp nhận” sự chỉ trích. Có những chỉ trích đúng, có những chỉ trích sai nhưng nếu không chịu được sự chỉ trích của thiên hạ thì không thể nào trở thành người lãnh đạo tốt. Không một ai tin rằng chế độ độc đảng lãnh đạo sẽ trường tồn, nó phải chấm dứt một ngày gần đây. Không hiểu các vị lãnh đạo Việt Nam có khi nào đặt tự đặt cho mình câu hỏi chuyện gì sẽ xảy ra khi đó? Con cái họ sẽ như thế nào? Thanh danh của họ sẽ ra sao? Nếu có câu trả lời thành tâm và nếu còn nghĩ đến hậu sinh thì những người này phải dứt khoát chọn con đường dân chủ hóa đất nước.
Dưới cơ chế độc đảng như hiện nay thì không những toàn thể nhân dân mất tự do mà ngay cả những cấp lãnh đạo cao nhất cũng không có tự do. Chúng ta không thể nào quên được hình ảnh ông Phan Văn Khải cầm giấy đọc trước mặt tổng thống Bush ở Nhà Trắng. Chúng ta cũng không quên được câu nói của ông Nguyễn Minh Triết khi trả lời sư ông Nhất Hạnh rằng, “chúng nó (đảng cộng sản) sẽ đập tui chết” qua lời kể của sư cô Chân Không trên đài RFA, khi sư ông Nhất Hạnh đề nghị lập bia tưởng nhớ những người đã chết khi vượt biển tìm tự do.
Trong công việc cũng vậy, sự đấu đá, kèn cựa tranh giành lẫn nhau diễn ra hàng ngày, hàng giờ giữa các nhân viên trong cùng cơ quan, trong cùng một công sở. Mỗi người đều phải tìm mọi cách lấy lòng cấp trên bằng những việc làm đôi khi trái với đạo đức và rồi họ sẽ trút giận vào nhân viên và cấp dưới. Chưa kể đến việc những kẻ cơ hội và vô học trèo lên các địa vị lãnh đạo bằng đầu gối. Những kẻ này thật sự là tai họa cho nhân viên dưới quyền và làm mất uy tín nghiêm trọng cho đảng cầm quyền.
Cũng chính do cơ chế độc quyền lãnh đạo mà “cái ghế” mới là chính, còn người ngồi trên cái ghế đó chỉ là phụ, là thứ yếu. Cũng là con người đang “oai phong lẫm liệt” ngồi trên “ghế cao”, nhưng chỉ cần rời khỏi “cái ghế” đang ngồi thì ngay lập tức “con người đó” không còn là ai cả, không còn ai nhớ và biết đến ông ta nữa. Người ta chỉ sợ “cái ghế” chứ không phục “người ngồi trên ghế”. Đây là nỗi nhục, nỗi xấu hổ, niềm cay đắng cho bất cứ ai đã phải trải qua tình cảnh này. Ví dụ mới nhất là trường hợp ông cựu bí thư tỉnh ủy Đồng Tháp Lê Minh Châu đăng trên báo Tiền Phong, ngày 05/04/2010.
Để loại bỏ những tai họa này thì chỉ có một thuốc chữa duy nhất là dân chủ và minh bạch. Minh bạch không thể có được nếu không có dân chủ và dân chủ thì không thể có được trong các thể chế độc tài. Như vậy gốc của mọi vấn đề là “dân chủ chính trị” mà thể hiện phải có của nó là sự đa đảng.
Chỉ khi có đa đảng thì lãnh đạo các đảng mới “uốn nắn” được đảng viên của mình. Câu thần chú khi đó thật đơn giản: “Nếu anh hành xử tồi tệ như vậy thì không những anh mất chức mà “đảng ta” cũng mất quyền lãnh đạo”. Đòi hỏi mỗi con người có tính tự giác là điều vô cũng khó khăn vì bản tính của con người khi sinh ra là đã có sự tham lam, sự xấu xa. Chỉ có sự chế tài thật mạnh, như việc “mất ghế” chẳng hạn, mới làm cho quan chức lo sợ.
Cũng chỉ dưới thể chế đa đảng thì mỗi quan chức nhà nước mới có thể tránh cho mình những sức ép không đáng có từ người thân, vợ con, làng xóm, đàn em… Khi có đa đảng thì mọi đảng đều phải tuân thủ pháp luật và như vậy quan chức không thể bao che, dung túng cho những hành vi sai lạc của người thân mình. Bộ phim truyền hình nổi tiếng “Chạy án” đã phản ánh nổi bất hạnh của ông bố Cẩm đầy quyền chức trước vợ con mình. Tình trạng này sẽ còn tiếp diễn chừng nào Việt Nam chưa có đa đảng, tức là chưa có cạnh tranh chính trị.
Như vậy, đa đảng đâu chỉ có lợi cho người dân? Vậy hà cớ gì mà những người cộng sản lại sợ đa đảng? Tại sao họ không dám cởi trói cho chính bản thân mình và con cháu mình?
Những câu hỏi trên dành cho những người lãnh đạo đảng cộng sản và cho cả người thân lẫn con cháu của họ. Cái gì thuận theo tự nhiên sẽ tiếp tục phát triển, cái ngược lại ắt phải đào thải. Đấy là chân lý tự nhiên của muôn đời.

Sửa đổi Hiến pháp Việt Nam phải bắt đầu với việc bỏ điều 4

Tiêu chuẩn
Sửa đổi Hiến pháp Việt Nam phải bắt đầu với việc bỏ điều 4

Kể từ ngày 02/01 cho đến ngày 30/03/2013, người dân Việt Nam được mời tham gia đóng góp ý kiến cho bản dự thảo sửa đổi Hiến pháp. Theo dự thảo sửa đổi Hiến pháp, có 8 nội dung sửa đổi được lấy ý kiến nhân dân, trong đó có Lời nói đầu của Hiến pháp; chế độ chính trị; quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; bộ máy Nhà nước; hiệu lực của Hiến pháp, v.v…

Trong cuộc họp báo ngày 29/12 vừa qua, ông Phan Trung Lý, trưởng ban biên tập dự thảo sửa đổi Hiến pháp đã tuyên bố là nhân dân có thể cho ý kiến đối với mọi nội dung trong bản dự thảo, kể cả điều 4 của Hiến pháp Việt Nam, « không có cấm kỵ gì cả ». Cho tới nay, ở Việt Nam, điều 4 Hiến pháp vẫn là chủ đề cấm kỵ và cựu chủ tịch Nước Nguyễn Minh Triết khi còn tại chức đã từng tuyên bố rằng : « Bỏ điều 4 Hiến pháp là tự sát ».

Trong bản hiến pháp 1992, điều 4 quy định vai trò của Đảng là « lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội », đồng thời khẳng định : « Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. ». Trong bản dự thảo sửa đổi Hiến pháp, điều 4 vẫn quy định Đảng lãnh đạo Nhà nước, chỉ có thêm một câu: « Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình. » Theo nhận định của ông Nguyễn Thanh Giang, một nhà bất đồng chính kiến ở Hà Nội, những câu viết thêm đó không mang lại thay đổi căn bản nào cho điều 4 Hiến pháp :

« Đằng đẵng suốt từ 1980 đến nay Điều 4 vẫn tiếp tục ngự trị Hiến pháp Việt Nam, nhưng phải nói rằng, so với Hiến pháp 1980, Điều 4 lần này đã bớt độc tài hơn khi không còn quy định: “ĐCSVN … là lực lượng duy nhất lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo xã hội” mà chỉ ghi: “ ĐCSVN … là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”

Điều 4 lần này dài hơn Điều 4 Hiến pháp 1992 vì có ghi thêm hai điều ràng buộc:

Một là: “Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình”.

Hai là: “Các tổ chức của Đảng và đảng viên hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”.

Thêm thắt chút ít cho uyển chuyển hơn, song điều cốt lõi này thì vẫn đó và không thể nào chấp nhận được: “ĐCSVN …lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”.

Sao lại cưỡng bức nhân dân Việt Nam phải chấp nhận một “lực lượng lãnh đạo” bắt họ phải “lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí minh làm nền tảng tư tưởng”, trong khi, chính cái nền tảng tư tưởng ấy đã đẻ ra cái chủ trương phản động nhất, cái khẩu lệnh phi lý, bất lương nhất trong lịch sử nhân loại: “Trí, Phú, Địa, Hào, đào tận gốc, trốc tận rễ”.

Chính cái “nền tảng tư tưởng” ấy đã xui ĐCSVN làm cải cách ruộng đất tàn sát hàng vạn đồng bào mình, trong đó có rất nhiều tinh hoa dân tộc.

Chính cái “nền tảng tư tưởng” ấy đã nẩy nòi ra những “lãnh tụ cộng sản” kiểu như ông Đỗ Mười, ngay sau 1975, hăng hái tiến vào SàiGòn triệt hạ công thương nghiệp bằng bàn tay chuyên chính vô sản tàn bạo, phi pháp, bất nhân.

“Đảng … chịu sự giám sát của nhân dân” thật ư? Nhân dân nào được giám sát mà lại chịu để cho ông TBT Đảng Nông Đức Mạnh mời Trung Quốc vào đóng chốt ở Tây Nguyên, chịu để cho ông TBT Lê Khả Phiêu nhượng bao nhiêu đất, bao nhiêu biển cho Trung Quốc.

“Đảng … chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quýết định của mình” mà sao không tự xử thích đáng, không không tự bãi nhiệm, từ chức trước những sai lầm tệ hại như chủ trương công nghiệp nặng làm then chốt đã từng tàn phá nền kinh tế, đẩy đất nước vào kiệt quệ, nhân dân chịu đói nghèo; như chủ trương mở đường Hồ Chí Minh và khu lọc dầu Dung Quất đã gây lãng phí hàng trăm, nghìn tỷ đồng …

Điều 4 còn đấy nên đã ràng buộc Điều 70 một cách vô lý:

“Lực lượng vũ trang nhân dân phải tuyệt đối trung thành với Đảng cộng sản Việt Nam, Tổ quốc và nhân dân, có nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa, cùng toàn dân xây dựng đất nước và thực hiện nghĩa vụ quốc tế”.

Quân đội được nhân dân sinh ra và tốn công tốn của nuôi nấng thì phải phục vụ nhân dân, bảo vệ giang sơn đất nước chứ đâu “phải tuyệt đối trung thành với ĐCSVN” để rồi phải tuyệt đối trung thành và xả thân bảo vệ cái nền tảng tư tưởng Mac-Lênin. Tệ hại hơn, đôi khi vì cái nền tảng tư tưởng ma quái ấy mà phải dấn thân làm đồ đệ cho một “mẫu quốc” nào đó!

Điều 4 làm khổ nghèo nhân dân, làm nguy hại đất nước như vậy mà sao cứ để nó đóng gông mãi vào Hiến pháp Việt Nam cho được! »

Trong chỉ thị 22 mà Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng vừa ký ban hành, lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam đã xem việc tổ chức lấy ý kiến nhân dân cho bản dự thảo Hiến pháp là « một đợt sinh hoạt chính trị quan trọng, rộng lớn trong toàn Đảng, toàn dân và cả hệ thống chính trị ». Thế nhưng, ngay trong chỉ thị đó, ông Nguyễn Phú Trọng đã yêu cầu công an và quân đội phải « ngăn chặn những hành vi lợi dụng dân chủ việc lấy ý kiến nhân dân để tuyên truyền, xuyên tạc, chống phá Đảng và Nhà nước. »

Lời răn đe này chắc chắn là khiến chẳng có mấy ai dám góp ý về những vấn đề nhạy cảm trong bản dự thảo sửa đổi Hiến pháp, như điều 4, sợ rồi sẽ bị khép vào tội « tuyên truyền chống Nhà nước », theo điều 88 Bộ luật Hình sự Việt Nam.

Trong « Lời kêu gọi thực thi quyền con người theo Hiến pháp tại Việt Nam », đề ngày 28/12/2012, một số nhân sĩ trí thức có tên tuổi ở Việt Nam đã yêu cầu hủy bỏ điều 88 này, một điều luật mà theo họ « thực chất là bóp nghẹt quyền tự do ngôn luận đã được Hiến pháp Việt Nam và Công ước quốc tế về những quyền chính trị và dân sự ghi nhận và bảo đảm ».

Trong bản dự thảo được công bố để lấy ý kiến nhân dân, đó là có một điều mới quy định về Hội đồng Hiến pháp, được mô tả là « cơ chế phán quyết về những vi phạm Hiến pháp trong hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp. Nhưng đối với ông Nguyễn Thanh Giang, nếu thật sự có vai trò như thế thì Hội đồng Hiến pháp này trước hết phải xóa bỏ những điều luật như điều 88 và điều 79 Bộ Luật Hình sự :

« Dự trù thành lập Hội đồng Hiến pháp như trong Điều 120 cũng là một nét tiến bộ đáng hoan nghênh của dự thảo Hiến pháp mới. Điều 120 xác định quyền hạn và nhiệm vụ của Hội đồng Hiến pháp là kiểm tra tính hợp hiến của các văn bản quy phạm pháp luật do Quốc hội, Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành; kiến nghị Quốc hội xem xét lại văn bản quy phạm pháp luật của mình khi phát hiện có vi phạm Hiến pháp; yêu cầu Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao sửa đổi, bổ sung văn bản quy phạm pháp luật của mình hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền hủy bỏ văn bản vi phạm Hiến pháp; kiểm tra tính hợp hiến của điều ước quốc tế được ký kết nhân danh Nhà nước trước khi trình Quốc hội, Chủ tịch nước phê chuẩn.

Hy vọng Hội đồng này nếu có chút phẩm giá thì việc trước tiên là nên yêu cầu Nhà nước hủy bỏ ngay điều 88 và điều 79 ở Bộ Luật Hình sự.

Nói vậy để được mơ màng thôi. Chừng nào còn ĐCSVN thì Điều 88 và Điều 79 kia phải được duy trì để bảo vệ Điều 4 chứ!

Nếu có một điểm gì thật sự mới so với Hiến pháp hiện hành, thì đó là trong bản dự thảo sửa đổi, người ta không còn ghi kinh tế Nhà nước là chủ đạo nữa, mặc dù vẫn Việt Nam vẫn được xem là « nền kinh tế thi trường định hướng XHCN », một khái niệm cho tới nay còn rất mơ hồ. Đối với ông Nguyễn Thanh Giang, đây là một điểm tiến bộ nổi bật của Hiến pháp sửa đổì lần này :

« Điều 54 của Dự thảo Hiến pháp sửa đổi đã được ghi:

1. Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế.

2. Các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân, cùng phát triển lâu dài, hợp tác, bình đẳng và cạnh tranh theo pháp luật”.

Đây là điểm tiến bộ nổi bật của Hiến pháp sửa đổi lần này. Nhớ lại rằng, Hiến pháp 1992 còn sủng tôn hết kinh tế nhà nước đến kinh tế tập thể mà kỳ thị kinh tế tư nhân. Điều 55 HIếN PHÁP 1992 ghi: “ …kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế tập thể với các hình thức hợp tác được củng cố và phát triển. Kinh tế tư nhân là một trong những động lực của nền kinh tế. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển”.

Tôi phấn khởi hoan nghênh và nhiệt liệt đón mừng điểm tiến bộ này. Suốt gần hai mươi năm qua, tôi đã viết vài nghìn trang chính luận góp phần bàn thảo nhiều vấn đề quốc sự, trong đó có ba điều trăn trở nhất. Ngoài vấn đề nên thiết lập mối liên minh liên kết với thế giới tiên tiến nói chung và với Hoa Kỳ nói riêng để ngăn ngừa sự xâm lăng Đại Hán, hai vấn đề đối nội mà tôi quyết liệt đấu tranh rất kiên trì là phải bỏ chủ trương ưu tiên kinh tế quốc doanh và chủ trương quy định đất đai là sở hữu toàn dân.

Tôi đã gọi doanh nghiệp nhà nước là những cái bồ sứt cạp thủng đáy để người ta mặc sức rót vô tội vạ tài sản, kể cả xương máu của nhân dân, vào đấy để cho hàng loạt cái mồm quý tử của Đảng thi nhau nhồm nhoàm nhai nuốt. Buồn cười nhất là ngay trong Báo cáo Chính trị Đại hội VII người ta đã ấn định phải tập trung nguồn lực làm cho kinh tế quốc doanh đạt chỉ tiêu 60% GDP. Lúc ấy tôi đã kịch liệt phản bác điều hoang tưởng nguy hại này và đã bị quy kết đủ tội: chống CNXH, chống Đảng, phản động….cho nên đã bị hành hạ đủ kiểu rất tàn nhẫn

Thực tế nhỡn tiền là mặc dù đã rót vào đấy không biết bao nhiêu tài sản xã hội, tài nguyên đất nước và đã qua mấy kỳ thực hiện Nghj quyết Đại hội rồi mà đến nay kinh tế nhà nước vẫn chỉ đóng góp được 30% GDP. Chẳng những thế, kinh tế nhà nước với rất nhiều Vinashin, Vinalines … đã choàng vào cổ nền kinh tế èo uột này món nợ xấu đến một triệu nghìn tỷ!

Suy cho cùng, đấy cũng là do hậu quả từ Điều 4 Hiến pháp. »

Tóm lại, theo ông Nguyễn Thanh Giang, dự thảo sửa đổi Hiến pháp lần này, tuy có một vài tiến bộ, nhưng vẫn chưa đạt yêu cầu của một Hiến pháp thật sự do dân, vì dân :

” Về quy phạm sửa đổi hiến pháp không những ta đã không theo lề lối của thế giới mà cũng không theo các điều khoản khoản hiến định trong Hiến pháp 1946.

Cho đến nay, Hiến pháp nước ta vẫn do Quốc hội soan thảo và thông qua, mà Quốc hội thì chỉ là cơ quan lập pháp trong khi lập hiến có chức năng riêng và quyền lập hiến là một quyền riêng.

Luật gia Thomas Jefferson, tác giả bản Tuyên ngôn Độc lập Hoa Kỳ 1776 đã nâng quyền lập hiến lên cao hơn quyền lập pháp. Từ đấy mới bảo đảm cho hiến pháp không bị cơ quan lập pháp làm biến chất.

Quốc hội chỉ là cơ quan lập pháp. Quyền lập hiến (quyền làm ra và sửa đổi hiến pháp) phải được giao cho Ủy hội Lập hiến gồm các chính khách, các trí thức Việt Nam tên tuổi trong và ngòai nước, các đại biểu xuất sắc thuộc mọi thành phần xã hội không chỉ là đại biểu Quốc hội hay đảng viên đảng CSVN. Bản Hiến pháp mới nhất thiết phải được đưa ra cho nhân dân phúc quyết. »

Phải để cho người dân thực hiện quyền phúc quyết Hiến pháp, tức là phải đưa Hiến pháp ra trưng cầu dân ý, đó cũng là yêu cầu của nhiều nhà trí thức khác, như tiến sĩ Tô Văn Trường. Trong một bài viết về sửa đổi Hiến pháp gởi cho trang Bauxite Việt Nam, được đăng ngày 11/1, ông Tô Văn Trường đã nêu lên vấn đề này. Ông viết :

« Nhiều quốc gia khi xây dựng Hiến pháp trên cơ sở phúc quyết của toàn dân, được nhân dân và trí thức góp công xây dựng tạo nên một bản Hiến pháp xứng đáng gọi là Hiến pháp làm cơ sở chỉ đạo các luật đi kèm. Quyền làm chủ đất nước của người dân ở mức độ đơn giản nhất thể hiện qua việc người dân được “phúc quyết” Hiến pháp. Lấy ý kiến người dân về Hiến pháp không phải là “Phúc quyết” mà cần có Trưng cầu dân ý. Liệu dự thảo Hiến pháp mới có được dân phúc quyết theo cách thức này? Còn góp ý giống như góp ý cho Nghị quyết Đại hội Đảng 2 kỳ vừa rồi thì mọi người cũng đã thừa biết là nó đi đến đâu. »

Trước đó, trong một bài đăng trên Lao Động cuối tuần, số đề ngày 03/01/2013, tiến sĩ Nguyễn Quang A, cũng đã viết :

“Nếu muốn xây dựng một nhà nước của dân, do dân, vì dân, thì mọi quyền lực phải thuộc về nhân dân. Hiến pháp không phải là của nhà nước, mà là của nhân dân. Trong Hiến pháp nhân dân là chủ thể, là người quyết định, là những người trao quyền cho nhà nước (phân quyền cho các nhánh nhà nước như lập pháp, hành pháp và tư pháp) đến mức nào và như thế nào để bảo vệ các quyền tự do và sự hạnh phúc của người dân. Đấy là quyền tối cao của nhân dân. Như thế nhân dân là người quyết định Hiến pháp. Đối tượng của Hiến pháp (đối tượng phải thi hành, phải tuân thủ Hiến pháp và bị hạn chế quyền lực bởi Hiến pháp) chính là nhà nước chứ không phải người dân.”

 

http://www.viet.rfi.fr/viet-nam/20130114-sua-doi-hien-phap-viet-nam-phai-bat-dau-voi-viec-bo-dieu-4

Hai tử huyệt của chế độ

Tiêu chuẩn

 

Có lẽ lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) quan niệm rằng

–       quy định về quyền lãnh đạo của ĐCSVN đối với Nhà nước và xã hội, và

–       quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân và do Nhà nước quản lý

tại Điều 4 và Điều 17–18 của Hiến pháp 1992 là hai tử huyệt của chế độ. Vì vậy, dư luận càng muốn hủy bỏ hoặc sửa đổi hai quy định đó, thì họ càng kiên quyết bảo lưu. Chúng nằm trong định hướng bất di, bất dịch của lãnh đạo đảng, và được tái thể hiện tại Điều 4 và Điều 57 của dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992.

 

 

Tử huyệt độc quyền lãnh đạo

 

Trong thế giới văn minh, quyền lãnh đạo đất nước của một đảng chính trị chỉ có thể giành được thông qua tranh đấu và bầu cử dân chủ. Kể cả khi đang cầm quyền, đảng vẫn phải phấn đấu liên tục, để thuyết phục Nhân dân tin tưởng và tiếp tục trao cho quyền lãnh đạo.

 

Không thể lấy công lao trong một giai đoạn quá khứ để bù lại cho hiện tại yếu kém, với bao sai lầm, tội lỗi, và áp đặt cho cả tương lai vô định. Nếu cứ từng có công là được cầm quyền vĩnh viễn, thì ĐCSVN phải trả lại chính quyền cho triều đình nhà Nguyễn, và triều đình nhà Nguyễn lại phải trả lại chính quyền cho các triều đình trước đó. Thế là khởi động cho một quá trình truy hồi dằng dặc, mà không thể tìm được điểm kết thúc. Hơn nữa, thời gian qua đi, giờ đây nắm quyền lực bao trùm đất nước lại là những người vốn chỉ đi theo hoặc ăn theo cách mạng, hay từng được cách mạng o bế và cưu mang mà thôi. Nếu họ từng có công, thì chưa chắc bù nổi những lỗi lầm đã gây ra. Phần lớn những người có công đáng kể, những công thần của chế độ, đã qua đời, hoặc nếu còn sống thì đã về hưu, và có lẽ đang đau lòng vì phải chứng kiến sự nghiệp cách mạng của thế hệ mình bị phản  bội.

 

Không thể coi quyền lãnh đạo đất nước của bất kỳ đảng phái nào là đương nhiên, và vì vậy không thể ghi điều đó vào Hiến pháp. Vả lại, nếu quyền đó đã là đương nhiên, được mọi người mặc nhiên thừa nhận, thì cũng chẳng cần ghi vào Hiến pháp làm gì, để khỏi gây phản cảm một cách không cần thiết. Nếu một điều không phải là đương nhiên và không được tất cả mọi người thừa nhận, mà vẫn bất chấp, áp đặt bằng được trong Hiến pháp, thì chỉ riêng việc làm đó đã khắc họa xong tính dân chủ và tính hợp pháp của đảng và chế độ.

 

Nếu ĐCSVN được đa số Nhân dân tin cậy và ủng hộ, thì bất cứ cuộc tổng tuyển cử dân chủ nào cũng đưa lại một kết quả tất yếu, đó là trao cho đảng quyền lãnh đạo đất nước. Cho nên, khi khẳng định rằng “bỏ điều 4 Hiến pháp là tự sát”, thì có nghĩa đã mặc nhiên thừa nhận thực trạng tệ hại của đảng, khiến đa số Nhân dân không thể đồng tình ủng hộ và chắc chắn sẽ không bầu cho đảng. Nếu nghĩ là mình không còn xứng đáng, không còn được đa số Nhân dân tín nhiệm, mà vẫn dùng Hiến pháp để áp đặt bằng được vai trò lãnh đạo, thì có còn tử tế và vì Dân nữa hay không?

 

Con người muốn tồn tại và phát triển thì không thể khước từ thử thách, không thể lẩn tránh đối đầu. Ngược lại, phải chấp nhận thử thách, vượt qua thử thách mà vươn lên. Nếu một đứa trẻ luôn được o bế trong căn nhà vừa được vô trùng, vừa được điều hòa nhiệt độ một cách tuyệt đối, thì sẽ dễ bị đổ bệnh khi ra khỏi cửa. Nếu con cái được bố mẹ quá bao cấp, kèm cặp từng li từng tí, thì sẽ dễ ngã gục khi bước vào cuộc sống tự lập trong xã hội. Để tránh bệnh tật, hàng tỷ người trên thế giới chấp nhận tiêm vắc-xin, nhằm phát triển khả năng miễn dịch, tức là chủ động đưa cơ thể mình vào trạng thái thử thách. Muốn khỏe, con người không thể ỳ ra, mà phải thường xuyên khổ luyện dưới hình thức thể dục. Không có cạnh tranh, không có thi đua (thực chất), thì con người không thể khá lên được.

 

Không chỉ từng cá thể, mà cả quần thể, với tư cách tổ chức, đảng phái, hay cả xã hội, cũng phải biết đương đầu với thử thách. Vì biết tận dụng cuộc cạnh tranh giữa hai hệ thống chính trị trên thế giới để tự hoàn thiện, để giành phần thắng trong cuộc chiến tranh lạnh, nên các nước tư bản hàng đầu đã phát triển vượt bậc, không chỉ về kinh tế, khoa học và công nghệ, mà cả về dân chủ và phúc lợi xã hội, cũng như về quyền con người.

 

Ngược lại, các nước trong phe xã hội chủ nghĩa đã xử lý sai tình huống và quan hệ địch ta. Nhìn đâu cũng thấy địch, kể cả trong Dân, nên nhiều khi đối xử với Dân cũng giống như với địch, khiến dần dần mất Dân. Ỷ thế vào cường quyền, Đảng Cộng sản Liên Xô đã đầu têu trong việc cấm đảng phái khác hoạt động, để rồi sau này ĐCSVN cũng nối gót sai lầm. Các nước khác trong phe xã hội chủ nghĩa chấp nhận đa đảng, nhưng cũng chỉ là hình thức. Dân chủ xã hội và quyền con người bị bóp nghẹt, khiến tinh thần và trí tuệ cũng bị lụi tàn. Tưởng rằng như vậy thì các đảng cộng sản sẽ rảnh tay, có thể tập trung lực lượng chiến đấu với kẻ thù chính ở hệ thống bên kia, nhưng kết quả thì ngược lại. Kinh tế suy sụp, lòng Dân ly tán, khiến hệ thống chính trị được dày công xây dựng suốt hơn nửa thế kỷ bị phá từ trong phá ra, đổ rụp trong chốc lát, làm cho đối thủ cũng bị bất ngờ đến ngỡ ngàng.

 

Họa đôi khi cũng là phúc, nếu biết rút ra bài học hợp lý từ thảm họa. Nếu quay ra chấp nhận cạnh tranh một cách dân chủ trong xã hội đa đảng, đa nguyên, ĐCSVN sẽ buộc phải lựa chọn những người lãnh đạo thuộc loại ưu tú nhất, và chắc chắn sẽ chọn được hàng ngũ lãnh đạo tốt hơn gấp bội lần so với đội hình đương nhiệm, kể cả tài lẫn đức. Mọi phần tử thoái hóa, tham nhũng sẽ bị vạch trần và bị đào thải. Trong ba triệu đảng viên không thiếu người tài, người tốt. Vấn đề là phải dùng dân chủ để giải phóng tiềm năng bị độc quyền giam hãm bấy lâu. Không chỉ dựa vào nội lực, dân chủ xã hội còn cho đảng thêm cả sức mạnh từ ngoài đảng. Nếu đảng cầm quyền không tự nhận ra tồn tại yếu kém của mình, thì các đảng đối lập cũng sẽ vạch ra cho. Chẳng cần đến những nghị quyết vô dụng, những màn kịch phê bình – tự phê bình giả dối và lố bịch, thì ĐCSVN vẫn có thể vươn lên, tốt hơn hẳn hiện tại, để được Nhân dân tin tưởng mà trao quyền lãnh đạo.

 

Tiếc rằng, lãnh đạo của ĐCSVN lại phản ứng như gã tài xế ù lì, chỉ biết nghiến răng tăng ga, khi cỗ xe đang lao xuống đầm lầy. Một mặt, đảng càng suy sụp thì họ càng bóp nghẹt dân chủ trong đảng, dân chủ trong xã hội, và càng hạn chế quyền con người, nhằm duy trì quyền lực bằng bạo lực. Mặt khác, giới cầm quyền tranh thủ tham nhũng, đua nhau vơ vét, tước đoạt cả tài sản của Dân. Chính họ, chứ không phải thế lực thù địch nào khác, đã và đang phá nát ĐCSVN. Trạng thái độc đảng đã triệt tiêu sức chiến đấu và bản năng sống lành mạnh của đảng. Buông thả trong thế độc quyền, ĐCSVN đang tự tha hóa, tự hủy diệt, như cỗ xe không phanh, lao xuống dốc, hướng thẳng tới vực thẳm.

 

Có ý kiến đề xuất tăng cường dân chủ trong nội bộ đảng để bù lại, để tự gột rửa và điều trị căn bệnh ung thư đã bước sang giai đoạn di căn. Nhưng không thể tồn tại dân chủ trong một đảng độc quyền. Chỉ có dân chủ ngoài xã hội mới thúc đẩy dân chủ trong đảng, chứ không phải ngược lại.

 

Khước từ dân chủ xã hội, trong đó có thể chế đa đảng, ĐCSVN không chỉ gây thêm thù oán với Dân, mà còn tự tước bỏ khả năng đề kháng và hy vọng chữa trị căn bệnh nan y của chính mình. Sự bảo thủ kiêu ngạo đã bịt mắt giới lãnh đạo, khiến họ cố tình làm ngơ trước thực tế là: Đảng Nhân dân Camphuchia, một đảng từng được ĐCSVN nâng đỡ và phải đương đầu với hoàn cảnh khó khăn gấp bội, vẫn có thể giữ được quyền lãnh đạo đất nước thông qua bầu cử, mà không cần phải bức hại đa nguyên, không cần phải cưỡng bức Hiến pháp.

 

Cần phải nói thêm rằng: Quy định ĐCSVN là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội không có nghĩa nó là lực lượng lãnh đạo duy nhất, càng không phải là đảng duy nhất được phép tồn tại. Do đó, kể cả khi duy trì Điều 4 củaHiến pháp 1992, thì việc ngăn cấm các đảng phái chính trị khác thành lập và hoạt động là vi phạm quyền tự do hội họp, lập hội, được quy định tại Điều 69, Hiến pháp 1992 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

 

 

Tử huyệt sở hữu toàn dân về đất đai

 

Hiến pháp 1946 không đề cập đến đất đai. Hiến pháp 1960 chỉ quy định đất hoang thuộc sở hữu của toàn dân. NhưngHiến pháp 1980 và Hiến pháp 1992 thì quy định (toàn bộ) đất đai thuộc sở hữu toàn dân.

 

“Sở hữu toàn dân” lại có nghĩa là chẳng người dân nào có quyền sở hữu. Trớ trêu thay, nhân danh “sở hữu toàn dân” để tước đi quyền sở hữu của toàn dân. Những mảnh đất vốn dĩ có chủ, được khai hoang, được trao đổi, mua bán, hay được thừa kế hợp pháp từ bao đời, nay bỗng nhiên trở thành vô chủ. Bộ máy cầm quyền, vốn dĩ chẳng có gì, mà nay lại chiếm được tất cả, trong đó có quyền quyết định về đất đai trong cả nước.

 

Để vận động hàng chục triệu nông dân giúp đỡ cướp chính quyền, ĐCSVN đã giương khẩu hiệu “dân cày có ruộng”. Chữ“có ruộng” ở đây đương nhiên là “sở hữu ruộng đất”, chứ không phải chỉ là “có quyền sử dụng đất”. Sau khi giành được chính quyền ở miền Bắc, đảng đã lấy ruộng của người giàu chia cho người nghèo, rồi tiếp đó lại vận động nông dân góp ruộng để làm ăn tập thể, trong mô hình hợp tác xã nông nghiệp. Khi đã giành được chính quyền trong cả nước, lãnh đạo ĐCSVN quyết định quốc hữu hóa đất đai, dưới hình thức “sở hữu toàn dân”Nếu biết trước kết cục sẽ mất đất như vậy, liệu hàng triệu người có còn theo đảng, giúp đảng giành chính quyền nữa hay không?

 

Khi chính quyền tử tế, có khả năng sử dụng đất đai một cách vô tư, hợp lý và công bằng, thì sở hữu toàn dân về đất đai có thể tạo ra một sức mạnh cộng hưởng để xây dựng đất nước. Và người dân có thể tự an ủi rằng mình hy sinh bớt lợi ích cá nhân để phục vụ lợi ích cộng đồng, trong đó có cả bản thân và gia đình mình. Nhưng khi chính quyền tham nhũng thì sở hữu toàn dân về đất đai gây ra đại họa, không chỉ làm khổ muôn dân, mà phá nát cả chính quyền.Chỉ mất mấy giây hạ bút, kẻ mang danh “công bộc” đã có thể vơ về cả đống tiền của, mà một người lao động chân chính lăn lộn cả đời cũng không kiếm nổi. Chỉ với mấy chữ ký loằng ngoằng của mấy kẻ có chức quyền, hàng trăm, hàng ngàn người dân đã bị tước mất đất đai, nơi họ đang làm ăn, sinh sống, trở thành dân oan, lang thang khiếu kiện khắp nơi.Càng duy trì sở hữu toàn dân về đất đai, thì càng gia tăng oán hận của Dân, càng sinh sôi tham nhũng trong tầng lớp lãnh đạo, và càng đẩy nhanh quá trình tự hủy diệt của chế độ.

 

Bộ máy cầm quyền đầy ắp những kẻ tha hóa, cấu kết với bao kẻ vốn đã lưu manh từ trước khi chen chân vào chốn quan trường. Cái thứ “sở hữu toàn dân” ngon lành và dễ ăn như thế, làm sao kìm nổi lòng tham? Có thể những người đã no nê cũng tán thành tư nhân hóa đất đai, vừa giũ bỏ được cái nguồn kiếm chác béo bở đã trở thành “của nợ”, vừa có được quyền sở hữu vĩnh viễn cho số đất đai đã thu gom bấy lâu. Nhưng những vị còn chưa thấy đủ no và những kẻ kế cận đang mong chờ đến lượt mình được vơ vét thì lại không dễ buông tha.

 

Muốn nuốt thì hóc, mà muốn nhả ra cũng không hề dễ. Tư nhân hóa đất đai thế nào? Trao quyền sở hữu cho ai và trao bao nhiêu? Khi còn là sở hữu toàn dân thì chủ đất cũ đành chịu lặng thinh. Nhưng khi mảnh đất vốn của mình lại được giao cho một người lạ hoắc sở hữu, thì chủ cũ đâu dễ chịu ngồi im. Đất đai vốn dĩ nằm trong trạng thái phân bổ tương đối ổn định và hợp lý về mặt lịch sử, mấy chục năm qua bị đẩy vào tình trạng hỗn loạn. Nếu bây giờ muốn sửa chữa sai lầm, lập lại trật tự, thì lại quá khó. Hoàn cảnh thực tại giống như gã phàm ăn nuốt phải lưỡi câu: Nuốt tiếp thì vướng cước và có thể bị chọc thủng dạ dày, mà lôi ra thì móc vào cổ họng.

 

Thách thức vượt quá năng lực tư duy và hành động của những đầu óc u mê, trí tuệ giáo điều. Biết làm gì ngoài việc câu giờ, dồn hậu họa lên đầu những người kế nhiệm?

 

Quả là rất khó để thoát ra khỏi tình trạng sa lầy về sở hữu đất đai. Sai lầm càng lớn thì khắc phục càng khó. Songlãnh đạo ĐCSVN cần xác định rằng họ có trách nhiệm giải thoát Dân tộc ra khỏi bãi lầy, mà chính đảng đã đẩy Dân tộc xuống. Nếu biết huy động trí tuệ của Dân tộc và tạo được sự đồng thuận của Nhân dân, thì khó mấy cũng làm được. Cách làm như thế nào không phải là chủ đề trao đổi của bài này.

 

*

*      *

 

Quy định trong Hiến pháp về quyền lãnh đạo đương nhiên của ĐCSVN đối với Nhà nước và xã hội tưởng để đảng trường tồn, nhưng lại là điều khoản khai tử của ĐCSVN, khai tử khỏi lòng Dân và khai tử khỏi cuộc sống chính trị.

 

Quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân và do Nhà nước quản lý như cỗ máy khổng lồ, từng phút từng giờ đùn ra hàng đống thuốc nổ, nén chặt vào lòng Dân. Nó giống loại ma túy cực độc, có thể thỏa mãn cơn nghiện tham lam vô biên của giới cầm quyền, nhưng cũng tăng tốc quá trình tự hủy diệt của ĐCSVN và chế độ do đảng dựng nên.

 

Vì vậy, nếu muốn bảo vệ ĐCSVN và chế độ này, thì cần phải nhanh chóng loại bỏ hai quy định đó ra khỏi Hiến pháp.

 

Ngược lại, nếu muốn gạt bỏ sự lãnh đạo của ĐCSVN, thì có thể sẽ sớm được toại nguyện, nếu tiếp tục duy trì hai quy định ấy trong Hiến pháp, bởi lẽ không có cách phá nào nhanh hơn là tự phá.

 

 

Hà Nội, 11/01/2013