Tag Archives: Dân Chủ

Nhận diện “phản động” từ phát biểu của Obama

Tiêu chuẩn

BS Phan Xuân Trung

Từ trước đến nay tôi nghe người ta nói nhiều về “phản động” và “thế lực thù địch” nhưng không hình dung ra được họ là ai, cách nhận diện ra họ như thế nào. Sau khi nghe và đọc lại bài phát biểu của Tổng thống Hoa Kỳ, tôi đã hiểu ra được các khái niệm đó. Cách hiểu của tôi có thể sẽ rất khác với các bạn khác.

Trong bài phát biểu của TT Obama tại Hà Nội có đoạn: “Những quyền mà tôi nói đến không phải chỉ là giá trị của Mỹ, mà là phổ quát, được nêu trong Tuyên ngôn nhân quyền. Chúng cũng có trong Hiến pháp của chính VN: quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin, bầu cử, lập hội, biểu tình…”

Hiến pháp của Việt Nam tuyên bố người Việt Nam có những quyền cơ bản của loài người văn minh, bảo vệ quyền cơ bản của từng con người. Nhân dân Việt Nam đã chiến đấu và nhà nước Việt Nam đang phấn đấu để bảo vệ những quyền đó của người dân Việt Nam.

Đó là chiều hướng tích cực, tiến bộ, văn minh mà dân tộc Việt Nam hướng tới.

Theo đó, tất cả các lực cản nào cản trở sự phát triển này của con người Việt Nam được xem là phản động (ngáng đường, cản trở, đẩy lùi, ngăn cản…), là chống lại chiều hướng tích cực nêu trên.

Từ đó ta dễ dàng nhận diện được ai là phản động:

– Những ai ngăn cấm tự do ngôn luận, bịt miệng người dân.
– Những ai cấm đoán báo chí, tranh biếm họa, bình luận phê phán…
– Những ai ngăn cản quyền tiếp cận thông tin, giấu diếm thông tin, thiếu minh bạch trong hoạt động liên quan đến xã hội.
– Những ai không cho bầu cử, không tổ chức cho dân chúng được quyền lựa chọn lãnh đạo, người quản lý tài đức, đủ khá năng, hợp lòng dân.
– Những ai cấm lập hội, giải tán các tổ chức, đoàn thể của nhân dân.
– Những ai cấm biểu tình, giải tán biểu tình, đánh đập, bắt giam người biểu tình.

Tất thảy những người, những lực lượng có các hành vi trên, chống lại quyền con người đã được hiến pháp quy định chính là phản động và là thế lực thù địch của nhân dân Việt Nam.

– See more at: https://www.danluan.org/tin-tuc/20160526/nhan-dien-phan-dong-tu-phat-bieu-cua-obama#sthash.Syk8sBOR.dpuf

Thương hiệu chính trị-khắc tinh của hoàng hôn nhiệm kỳ

Tiêu chuẩn

Thương hiệu chính trị-khắc tinh của hoàng hôn nhiệm kỳ

PGS.TS. Võ Trí Hảo (*)

clip_image004(TBKTSG) – Giờ này, ở bên kia bán cầu, hàng chục ứng viên đang tìm cách phô diễn tài năng xuất chúng, phẩm chất trong sạch, sự am hiểu dân nguyện trong cuộc đua trở thành ứng viên vào vị trí quyền lực nhất thế giới: Tổng thống Mỹ. Giám khảo trong cuộc đua này không ai khác chính là công chúng trong các cuộc thăm dò dư luận (poll).

Khi các ứng viên bắt đầu cuộc đua, thì thời điểm kết thúc hai nhiệm kỳ của Tổng thống Obama ngày càng tới gần; ông ta không còn bất kỳ cơ hội tái cử nào. Nhưng “hoàng hôn nhiệm kỳ” không diễn ra trong suốt 44 đời tổng thống của xứ sở này, không phải vì các tổng thống là thánh thần, mà bởi vì ở xứ đó tồn tại một thứ đóng vai trò khắc tinh của “hoàng hôn nhiệm kỳ”: thương hiệu chính trị.

Thương hiệu chính trị là gì? Nó có logic chung gì với thương hiệu thương mại?

Triết lý và hệ quả của việc có hay không thương hiệu thương mại

Khi ở địa phương này coi khách hàng là thượng đế, thì ở xứ nọ lại nổi tiếng vì đặc sản “cháo mắng, phở chửi” như là tàn tích thể chế (institutional heritage) của thời kỳ bao cấp, là di ảnh của “cô bán mậu dịch mặt vênh như cái bánh đa”.

Cha mẹ sinh ra, cô mậu dịch viên có bản mặt phẳng phiu như bao người khác, cớ chi lại trở nên “vênh”? “Vênh” vì lắm người cầu cạnh. Mà không cầu cạnh sao được, vì ta nắm giữ độc quyền cửa hàng mậu dịch. Độc quyền mà không biết khai thác, người ta bảo là dại. Độc quyền đẻ ra cầu cạnh, cầu cạnh đẻ ra bổng lộc cho ta. Chẳng phải cha mẹ ta, mà cơ chế đã nhào nặn nên bộ mặt “vênh” của ta; khi về nhà gặp cha mẹ, bản mặt ta lại hiền hòa như thuở sinh ra.

Cha mẹ sinh ra, người Sài Gòn cũng có đầy tự tin, kiêu hãnh, phong thái của người tự do, cớ sao đôi khi cứ phải nén giận mà nghe khách hàng bất nhã phùng mang trợn mắt với mình? Cớ sao không “vênh” như cô mậu dịch viên kia cho đỡ tức? Xin thưa: Cơ chế mậu dịch quốc doanh, mà rộng hơn là cơ chế bao cấp, chỉ áp đặt lên Sài Gòn trong tròm trèm 10 năm (1975-1986), chưa kịp nhuốm phong cách bán hàng phục vụ của người Sài Gòn. Thay vào đó, phong cách bán hàng, phục vụ của người Sài Gòn đã được định hình bởi cơ chế thị trường gần 100 năm (80 năm Nam kỳ thuộc địa trực trị áp dụng pháp luật thị trường của Pháp, 20 năm Việt Nam Cộng hòa cũng là thể chế kinh tế thị trường).

Mỗi một lựa chọn thể chế chính thức sẽ có một hệ quả thể chế phi chính thức tương ứng; pháp luật tạo độc quyền cho cô bán hàng mậu dịch, thì cái mặt“vênh” không xuất hiện mới là điều phi logic. Thì cũng vậy với thương hiệu chính trị, xói mòn là điều xót xa không thể tránh khỏi, cho những thế hệ nào đã hy sinh xương máu, dày công tạo dựng.

Trong thể chế thị trường, “vênh” không đẻ ra bổng lộc như trong cơ chế độc quyền, mà ngược lại “vênh” là… tự tử. Bởi đơn giản, mình “vênh” thì khách hàng sẽ bỏ đi sang hàng kế bên. Ai cũng tìm cách kéo khách hàng về phía mình và người bán hàng lại phải cầu cạnh khách hàng, coi họ là thượng đế, không phải vì niềm tin tôn giáo, mà vì họ mang lại lợi nhuận cho chính mình.

Không thể giữ chân khách hàng bằng quyền lực hành chính, bằng cơ chế độc quyền, thì chủ tiệm Sài Gòn phải lôi kéo khách hàng bằng chất lượng, giá cả, uy tín. Thế là nhu cầu thương hiệu thương mại, nhãn hiệu hàng hóa ra đời và họ tìm cách đặt tên cho sản phẩm của mình.

Nhưng thương hiệu thương mại, cũng như thương hiệu chính trị không thể ra đời nếu pháp luật không ghi nhận, nhà nước ngăn cấm hoặc tìm cách phá hủy nó. Bởi đơn giản, khi sản phẩm mang thương hiệu mình đắt hàng, thì hàng xóm cũng sẽ treo biển mang thương hiệu của mình lên để bán; khách hàng sẽ bị nhiễu loạn; tác dụng thương hiệu ngay lập tức biến mất.

Bởi vậy, mọi nền kinh tế thị trường phải lấy cạnh tranh làm động lực phát triển; muốn duy trì cạnh tranh phải ghi nhận và bảo hộ thương hiệu để khuyến khích người kinh doanh có uy tín, loại bỏ sự lập lờ đánh lận con đen của kẻ gian. Bảo hộ thương hiệu cá nhân chưa đủ, mà phải bảo hộ thương hiệu đối với tổ chức. Bảo hộ thương hiệu đối với tổ chức sẽ đóng góp thêm hai giá trị: (1) cho phép cộng sự, đối tác của chủ tiệm có thể mở rộng các chi nhánh ra các vùng lãnh thổ khác; (2) cho phép chuyển giao thương hiệu kể cả khi chủ tiệm qua đời, hay đơn giản bán thành quả xây dựng thương hiệu của mình cho người khác khai thác.

Chính ở khía cạnh này, một thương hiệu được truyền từ đời ông sang đời cháu; thương nhân Sài Gòn không dễ gì nổi nóng với một khách hàng bất nhã để hủy hoại một di sản của cha ông họ; một di sản bảo đảm tương lai tươi sáng cho con cháu họ. Chính ở khía cạnh này, thương hiệu chính trị trở thành khắc tinh của “hoàng hôn nhiệm kỳ” như phân tích ở phần sau.

Thương hiệu chính trị – điều kiện cốt lõi của một nền chính trị cạnh tranh lành mạnh

Phân tích quá trình ra đời, gián đoạn, chết đi và hồi sinh của thương hiệu thương mại, cho thấy bốn triết lý: (1) Thương hiệu chỉ ra đời trong bối cảnh có cạnh tranh; là công cụ để duy trì sức mạnh cạnh tranh lành mạnh của thị trường; (2) Nếu một thương hiệu được xác lập dù tốt đến mấy, nhưng khi được hưởng độc quyền, thì người kế tục sẽ không có nhu cầu chăm sóc và sẽ để nó xuống cấp qua thời gian; (3) Nếu luật pháp không bảo hộ, thì rất khó duy trì thương hiệu; (4) Thương nhân duy trì thương hiệu, không phải lúc nào cũng vì lòng tốt hay sự tử tế hiếm hoi, mà chính vì thương hiệu là lợi ích, sản nghiệp của ông ta.

Bốn triết lý này cũng xuyên suốt thương hiệu chính trị. Trong chế độ độc quyền thì bè phái sẽ làm tổn hại quyền lực của nhà vua, bởi vậy bị nhà vua khép tội chết hay chí ít là bị truất quyền bởi hành vi gây mất đoàn kết nội bộ. Nhưng từ khi loài người bước sang thời đại dân chủ, cùng với quyền tự do lập hội, bè phái không còn bị cấm đoán; mà ngược lại được thể chế hóa, pháp luật ghi nhận, tạo điều kiện công khai hóa và kiểm soát, tránh những hậu quả xấu của nó, đồng thời khai thác ưu điểm.

Như vậy, mỗi đảng phái chính trị trong xã hội dân chủ không có gì huyền bí cả, mà chính là các thương hiệu chính trị tập thể, trong sự tranh giành “khách hàng” là các cử tri. Việc pháp luật Mỹ bảo đảm quyền tự do đảng phái không chỉ là hiện thực hóa quyền tự do chính trị, tự do bầu cử trong Hiến pháp (1), mà nó còn tạo ra tám hệ quả sau cho một nền chính trị lành mạnh:

(1) Uy tín của thương hiệu chính trị tập thể trở thành công cụ cạnh tranh lành mạnh và đơn giản hóa cho sự lựa chọn của cử tri. Thay vì lựa chọn giữa hàng trăm ứng viên, đôi người còn lạ hoắc với công chúng, thì cử tri Mỹ chỉ việc lựa chọn một trong hai thương hiệu;

(2) Việc ghi nhận và bảo hộ thương hiệu tập thể làm cho giá trị của nó được chuyển giao, vun đắp ở các thế hệ tiếp theo, mà không chấm dứt như thương hiệu chính trị cá nhân.

(3) Các khẩu hiệu tranh cử, không còn xa rời dân nguyện, mà đó chính là khẩu hiệu “tiếp thị” công chúng. Nếu đảng nào không hiểu dân nguyện, đưa ra khẩu hiệu tranh cử sai, họ sẽ phải trả giá. Chính nhu cầu nắm bắt dân nguyện, phân tích chính sách, khuyến nghị chính sách đã sinh ra hệ thống các think tank ở Mỹ. Các think tank chính là các tổ chức cung cấp dịch vụ tư vấn thương hiệu, marketing.

(4) Việc thực hiện các cam kết khi tiếp xúc cử tri, vận động tranh cử chính là việc tiếp tục bảo đảm uy tín cho thương hiệu tập thể, chứ không đơn giản là uy tín cá nhân mình. Để cho đảng viên hứa thật nhiều, và thất hứa thật nhiều, có nghĩa đảng phái đó đang tự đào thải.

(5) Thay vì gian dối với các bản kê khai minh bạch tài sản, các ứng viên tự nguyện “chui mình vào lồng kính”, mặc dầu luật pháp không yêu cầu điều đó; đơn giản nếu họ không tự làm cho mình trở nên minh bạch nhất, thì cử tri sẽ chọn người nào đã chui vào lồng kính. Không chỉ họ, mà cả gia đình họ cũng sẽ tự chui vào lồng kính, bởi nếu chính trị gia nào không đủ sức thuyết phục gia đình làm điều đó, thì cử tri sẽ chọn ứng cử viên nào có cả gia đình trong sạch.

(6) Mỗi một sai lầm, thất hứa, tham nhũng của một đảng sẽ là cơ hội vô giá của đảng đối lập; bởi vậy, mỗi đảng phải hết sức giữ mình, và ngay lập tức yêu cầu đảng viên của mình từ chức, kể cả khi họ không vi phạm pháp luật, nhưng không làm cử tri hài lòng. Hay nói cách khác, từ chức không phải là văn hóa tự thân, mà nó là hệ quả của việc giữ gìn thương hiệu chính trị tập thể.

(7) Để bảo đảm phát triển thương hiệu, thì mỗi đảng phải chỉ đưa ứng viên xuất sắc nhất của mình ra thi đấu với ứng viên từ đảng khác. Muốn vậy, không chỉ dừng lại ở khẩu hiệu, dân chủ trong nội bộ từng đảng trở nên vấn đề sống còn, vì vậy quá trình lựa chọn ứng viên phải diễn ra công khai trước ống kính truyền hình trực tiếp bằng các cuộc tranh luận (debate) không có bất kỳ sự trợ giúp của thư ký hay cố vấn nào; lựa chọn ứng viên không phải bằng việc bỏ phiếu tín nhiệm trong nội bộ đảng, mà bằng việc thăm dò (poll) đánh giá của cử tri sau mỗi vòng tranh luận.

Hiện nay, chúng ta đang chứng kiến các vòng tranh luận của Donald Trump với Jeb Bush trong nội bộ Đảng Cộng hòa trên CNN; trong nội bộ Đảng Dân chủ, Hillary Clinton đang phải trổ tài lãnh đạo của mình trong các vòng tranh luận với Bernie Sanders. Các bài diễn văn được thư ký viết sẵn sẽ là điều xa lạ trong các cuộc đấu trí này; sự quan tâm hời hợt các vấn đề xã hội của ứng viên cũng sẽ được sớm phơi bày. Dựa vào kết quả thăm dò cử tri, các đảng sẽ chọn ứng viên nào của mình được dân chúng yêu mến nhất, dân chưa thấu hiểu là lỗi tại ứng viên chưa khoe hết tài hoặc không có tài.

(8) Bởi tính chất kế thừa của thương hiệu chính trị, nên tuy Tổng thống Obama sắp hết nhiệm kỳ nhưng Đảng Dân chủ của ông vẫn thúc ép ông hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đến giây phút cuối cùng. Bởi trong cơ chế cạnh tranh thì nếu Đảng Dân chủ để cho Obama diễn bài “hoàng hôn nhiệm kỳ” thì chính toàn bộ đảng này cũng sẽ “đi vào hoàng hôn”; và Hillary Clinton sẽ mất cơ hội thắng cử tổng thống. Bởi vậy, bất kể Obama tốt hay xấu, thương hiệu chính trị là khắc tinh, ngăn không cho Obama có hành động “hoàng hôn nhiệm kỳ”.

(*) Giám đốc Chương trình Tư vấn doanh nghiệp, Công ty Khoa & Associate, giảng viên khoa Luật, Đại học Kinh tế TPHCM

(1) http://vietnamnet.vn/vn/tuanvietnam/147316/cai-cach-the-che-va-quyen-tuyen-day-to.html

Nguồn: http://www.thesaigontimes.vn/140478/a.html

Diễn đàn CEO 2015: Cải cách thể chế để thúc đẩy kinh tế

Tiêu chuẩn

Diễn đàn CEO 2015: Cải cách thể chế để thúc đẩy kinh tế

Diễn đàn CEO ghi nhận những ý kiến đề nghị Chính phủ cải cách thể chế một cách mạnh mẽ hơn nữa…

Bình : Chỉ có cải cách thể chế chính trị từ toàn trị, độc tài, đảng trị, sang thể chế dân chủ tự do và trách nhiệm mới có thể đưa đất nước tiến lên, và thoát khỏi gọng kiềm Trung Quốc !

Diễn đàn CEO 2015: Cải cách thể chế để thúc đẩy kinh tế

Diễn đàn CEO 2015 với chủ đề “Tạo dựng môi trường kinh doanh bình đẳng và lành mạnh” do Thời báo Kinh tế Việt Nam tổ chức chiều 20/3 tại Hà Nội.

YẾN THANH

Các chuyên gia và nhà quản lý có mặt tại Diễn đàn CEO 2015 với chủ đề “Tạo dựng môi trường kinh doanh bình đẳng và lành mạnh” do Thời báo Kinh tế Việt Nam tổ chức chiều 20/3 tại Hà Nội đều có chung nhận định rằng, Chính phủ nên cải cách thể chế một cách mạnh mẽ để thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế trong bối cảnh hiện nay.

Cần một “nhà nước cải cách”

Theo TS. Lê Đăng Doanh, trong năm 2014, Chính phủ đã có những bước quan trọng nhằm cải cách thể chế, nâng cao năng lực cạnh tranh, thể hiện rõ qua Nghị Quyết 19-CP/NQ và các chỉ thị, quyết định của Thủ tướng Chính phủ nhằm cắt giảm các thủ tục hành chính.

Bên cạnh đó, Chính phủ cũng thể hiện sự thay đổi tư duy quan trọng, không lấy việc so sánh với chính mình 30 năm trước đây là thước đo so sánh cho sự tiến bộ nữa mà lấy việc đuổi kịp và vượt trình độ của 6 nước thành viên ASEAN phát triển hơn làm mục tiêu phấn đấu.

Một điểm nhấn khác là Chính phủ cũng đã trình ra Quốc hội nhiều dự án luật có nội dung đổi mới mạnh mẽ và trong phiên họp cuối năm 2014 để thông qua Luật Doanh nghiệp 2014, Luật Đầu tư 2014, Luật Nhà ở sửa đổi và nhiều luật khác như luật về thuế…

Chuyên gia giàu kinh nghiệm này cho rằng Việt Nam cần tiếp tục sửa đổi, bổ sung một loạt luật khác để mở rộng quyền tự do kinh doanh theo pháp luật đã được quy định trong Hiến pháp 2013, giảm rủi ro về pháp lý, bảo đảm an toàn về tài sản, đầu tư, kinh  doanh, cải thiện trật tự thị trường, thực hiện cạnh tranh bình đẳng theo pháp luật, kiểm soát độc quyền.

Hiện nay, đã xuất hiện những lo ngại trong bảo vệ quyền tài sản gửi ngân hàng, tài sản thế chấp, tài sản góp vốn cho công ty cổ phần, tài sản được thu hồi… chưa được bảo vệ thích đáng.

Một ví dụ được ông dẫn chứng là đã xuất hiện sự không tương thích trong khung pháp luật, thí dụ như Bộ Luật Hình sự cần bỏ điều 159 vì vẫn quy định tội kinh doanh trái phép là không còn phù hợp với Luật Doanh nghiệp 2014, cần phải sửa hay có quy định không áp dụng để tránh chồng chéo.

“Rất mong nhà nước ta sẽ sớm cải cách để trở thành một nhà nước cải cách, tự mình phát hiện sớm nhất những thiếu sót và hạn chế của mình và ủng hộ sáng tạo, nhanh chóng tự sửa đổi những yếu kém của mình”, ông Doanh đề xuất.

Theo đánh giá của ông Vũ Tiến Lộc, Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), việc thực hiện Nghị Quyết 19/2014/NQ-CP đã đạt được nhiều kết quả tích cực nhờ vai trò của cộng đồng doanh nghiệp trong việc chung tay cùng Nhà nước để cải cách thể chế. Chính phủ đã giao cho VCCI và các hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề thực hiện một số nhiệm vụ cụ thể và trong thời gian tới, sự “hợp tác” này sẽ tiếp tục được thực hiện một cách sâu rộng.

Điểm nhấn ngành thuế

Từ góc nhìn của một cơ quan quản lý và trực tiếp thực hiện những cải cách, ông Cao Anh Tuấn, Phó tổng Cục trưởng Tổng cục Thuế (Bộ Tài chính) cho biết, theo Nghị quyết 19 ngày 12/3/2015 của Chính phủ thì năm 2015 thời gian nộp thuế rút ngắn xuống không quá 121,5 giờ/năm, năm 2016 xuống còn không quá 119 giờ/năm và đạt mức Asean 4 về cải cách thủ tục hành chính thuế đối với 3 nhóm chỉ tiêu mới là: Hoàn thuế, Thanh kiểm tra và Xử lý khiếu nại thuế.

Trong thời gian vừa qua, việc cải cách, đơn giản hoá chính sách, thủ tục hành chính thuế tạo kiện kiện thuận lợi cho người nộp thuế luôn được Chính phủ, Bộ Tài chính và ngành thuế quan tâm, xác định là một trong những nhiệm vụ trọng tâm khi triển khai thực hiện nhiệm vụ chính trị và đã đạt được những kết quả nhất định.

Cụ thể, về cải cách về thể chế chính sách, hiện cơ quan này đã hoàn thiện, sửa đổi bổ sung chính sách thuế và quản lý thuế trên cơ sở đơn giản hoá chính sách và thủ tục hành chính cho doanh nghiệp.

Với việc cải cách này, theo cách tính toán của Tổ chức Tài chính Quốc tế (IFC) – thuộc Ngân hàng Thế giới (WB) trong Báo cáo môi trường kinh doanh 2014 thì đến 1/1/2015 số giờ nộp thuế của doanh nghiệp Việt Nam đã giảm được khoảng 370 giờ và giảm được 8 lần khai và nộp thuế giá trị gia tăng, giảm được 4 lần nộp tờ khai thuế thu nhập doanh nghiệp tạm tính.

Con số này mới đây đã được Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đưa ra trong bài trả lời chất vấn của đại biểu Quốc hội như là một ví dụ tốt về cải cách thể chế. Theo ông Doanh, đó là những tín hiệu rất đáng khích lệ, tuy nhiên “cuộc cải cách thể chế cần tiếp tục được đấy mạnh toàn diện trong năm 2015 để nâng cao hiệu quả năng lực cạnh tranh của nền kinh tế và doanh nghiệp”.

Trong khi đó, về hiện đại hoá công tác thu nộp, theo ông Cao Anh Tuấn, Tổng cục Thuế đã đẩy nhanh tiến độ triển khai dự án khai thuế, nộp thuế điện tử để tiết kiệm thời gian, chi phí của doanh nghiệp, vừa hạn chế sự can thiệp, tiếp xúc trực tiếp giữa cán bộ thuế với doanh nghiệp trong quá trình khai thuế, tính thuế.

Kết quả đến ngày 31/12/2014 đã có 97% số doanh nghiệp đang hoạt động khai thuế điện tử và đến ngày 27/2/2015 đã có hơn 24.000 doanh nghiệp tại 18/63 tỉnh/thành phố thực hiện nộp thuế điện tử.

Cơ quan này cũng đang thực hiện công khai thông tin về thủ tục hành chính thuế và quy trình giải quyết thủ tục hành chính thuế theo cơ chế một cửa tại cơ quan thuế và trên trang thông tin điện tử ngành thuế; đổi mới, nâng cao hiệu quả và tăng cường công tác truyền thông, hỗ trợ người nộp thuế hiểu và thực hiện đúng pháp luật thuế; duy trì hệ thống tiếp nhận thông tin phản hồi của người nộp thuế thông qua hòm thư góp ý, tổ chức các đường dây nóng…

Theo ông Tuấn, những nỗ lực này sẽ được tiếp tục trong thời gian tới như là một “nhiệm vụ chính trị” của ngành.

Read the rest of this entry

Bỏ đảng Cộng sản để trở thành công dân tự do đấu tranh

Tiêu chuẩn

Luật gia Lê Hiếu Đằng : Bỏ đảng Cộng sản để trở thành công dân tự do đấu tranh

Luật gia Lê Hiếu Đằng

Luật gia Lê Hiếu Đằng

RFI/Capdevielle

Hôm nay 05/12/2013, luật gia Lê Hiếu Đằng, Phó chủ nhiệm Hội đồng tư vấn về Dân chủ và Pháp luật thuộc Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã ra tuyên bố rời bỏ Đảng Cộng sản.

Người đảng viên hơn 40 tuổi đảng đã từng bị chính quyền Việt Nam Cộng Hòa kết án tử vì những hoạt động đấu tranh trong thời chiến đầy gian khổ trước đây. Nay khi đảng Cộng sản đang trên đỉnh cao quyền lực lại quyết định rời bỏ vì theo ông, đảng bây giờ thực chất là của các tập đoàn lợi ích, trở thành lực cản và đi ngược lại quyền lợi của lợi ích dân tộc.

Cũng như lời đề nghị thành lập đảng Dân chủ Xã hội trước đây, tuyên bố rời bỏ đảng Cộng sản Việt Nam của luật gia Lê Hiếu Đằng một lần nữa đã gây bão dư luận. Hôm nay trên các mạng xã hội đã có rất nhiều lời bàn tán về sự kiện này.

Từ giường bệnh tại bệnh viện 115 ở Thành phố Hồ Chí Minh, luật gia Lê Hiếu Đằng dù đang phải chống chọi với căn bệnh nan y, vẫn cố gắng trả lời RFI Việt ngữ. Xin quý thính giả vui lòng thông cảm về chất lượng âm thanh của cuộc phỏng vấn.

 

Luật gia Lê Hiếu Đằng – TP Hồ Chí Minh

05/12/2013
by Thụy My

RFI : Thưa anh, vì sao anh quyết định rời bỏ đảng Cộng sản Việt Nam ?

Trong bài viết khi nằm trên giường bệnh, về việc bỏ đảng có một thời gian tôi chưa làm được, bây giờ phải làm. Đó là hệ quả tất yếu thôi. Còn lý do bỏ đảng là vì bây giờ đảng không còn như thời kỳ giải phóng dân tộc nữa, mà trở thành một nhóm lợi ích đặt quyền lợi của gia đình, của cá nhân lên trên, chứ không phải quyền lợi của đất nước, của Tổ quốc. Đảng trở thành sức cản cho sự phát triển của đất nước, tiền của của dân bị lãng phí không biết bao nhiêu.

Điều làm tôi đau lòng nhất là người dân mất đất, mất ruộng, phải ly hương, ly tán, trong khi họ là những người chịu hy sinh rất nhiều trong chiến tranh. Thế bây giờ thì ai phản bội ai ? Rõ ràng là các ông ấy phản bội nông dân, phản bội dân tộc Việt Nam. Nói chung là phản bội lại những gì đã hứa hẹn trước kia.

Khi tôi vào đảng, tôi hy vọng là sau khi giải phóng dân tộc rồi thì sẽ xây dựng một chế độ tốt đẹp hơn. Nhưng bây giờ chế độ lại tồi tệ hơn xưa, mọi thứ đều xuống cấp, từ giáo dục, y tế cho đến đạo đức con người. Đảng Cộng sản trở thành sức cản của đất nước, của dân tộc, mà thực chất đây chỉ là tập đoàn lợi ích thôi. Thành ra tôi nghĩ phải từ bỏ, vì nếu là thành viên của đảng dù sao cũng là trách nhiệm. Trở thành một người công dân tự do để đấu tranh.

Chứ còn chủ nghĩa xã hội thì nó đã tanh bành ở Liên Xô rồi, nước nào người ta cũng đã từ bỏ…

RFI : Thưa anh, anh có nuối tiếc khi từ bỏ một tổ chức mà mình đã cống hiến bao nhiêu năm tuổi thanh xuân không ?

Tất nhiên là mình cũng thấy tiếc, nhưng không thể nào không từ bỏ được vì nó trở thành xấu xa. Chứ nếu vẫn còn là thành viên thì mình phải có trách nhiệm, vì vậy thôi bây giờ rút ra để mình trở thành công dân tự do; để đấu tranh cho chủ quyền, dân chủ, bảo vệ môi trường.

Đó là ba yếu tố thực chất vì con người, chứ còn chủ nghĩa xã hội cuối thế kỷ này như thế nào thì ai cũng biết. Trong khi con cái mấy ông (lãnh đạo) đi các nước tư bản, mấy ông lại bắt cả dân tộc phải đi theo con đường xã hội chủ nghĩa là một con đường hiện nay chẳng có lối ra, và ngay trên quê hương sinh ra nó người ta đã chối từ, đã phủ nhận.

RFI : Còn những đảng viên khác thì sao, và anh có nhắn nhủ gì với những người đang đấu tranh cho dân chủ không ?

Nhiều đảng viên người ta cũng thất vọng. Nhiều người trong đảng cũng rất tâm huyết, nhưng vì lý do gia đình hoặc những lý do khác…Tôi nghĩ nếu ai cũng vì lý do gia đình, vì lợi ích cá nhân mà không đặt lợi ích đất nước lên trên thì đất nước này sẽ đi về đâu ?

Do đó tôi hy vọng sau khi tôi từ bỏ đảng, thì những người khác cũng sẽ hưởng ứng.
 
RFI : Không chỉ trong đối nội, có lẽ cũng có những thất vọng về đối ngoại, như cách đối phó với Trung Quốc tại Biển Đông ?
 
Đúng vậy. Chính sách của ta nó nhu nhược, nói cách khác là hèn yếu trước sự hung hãn của bọn bành trướng Bắc Kinh. Thật ra nguy hiểm nhất là hiện nay Trung Quốc đã tràn lan khắp nơi, điển hình là ở huyện Kỳ Anh ở Nghệ An. Biển Đông thì còn lúc này lúc kia, chứ còn trên đất liền có biết bao nhiêu là nhân viên quân sự cũng như dân sự Trung Quốc. Tội lỗi là tại sao lại để cho tình hình xảy ra như thế.

Tôi nhắc lại, tôi từ bỏ để không còn là thành viên có trách nhiệm, là một đảng viên của đảng nữa, mà trở thành một công dân tự do. Khi ra khỏi đảng, tôi được tự do đấu tranh bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ ; bảo vệ nhân quyền và dân quyền ; bảo vệ môi trường. Đó là những vấn đề thiết thực cho con người, vì con người đối với người Việt, chứ còn cái thứ chủ nghĩa xã hội rất là mơ hồ.

RFI : Tức là dù đang trên giường bệnh, nhưng anh vẫn bức xúc khi cả dân tộc phải đi theo một chủ nghĩa mà tương lai có vẻ vẫn còn mù mịt ?

Đúng rồi, một tương lai mù mịt, chẳng đi đến đâu cả.

 

RFI : RFI Việt ngữ xin chân thành cảm ơn luật gia Lê Hiếu Đằng, kính chúc luật gia sức khỏe

Sự khác biệt giữa hai văn bản hiến pháp Việt Nam 1992 và 2013

Tiêu chuẩn

Sự khác biệt giữa hai văn bản hiến pháp Việt Nam 1992 và 2013

Nguyễn Duy Vinh (cựu học sinh trung học Nguyễn Trãi Sài Gòn)

Vào tháng 05 năm 2013, tôi có viết và đăng một bài có tựa đề “Những biến dạng của các văn bản hiến pháp của đảng Cộng Sản Việt Nam” (xem ở đây), trong đó tôi có tiên đoán như sau:

…Và nếu chúng ta đọc kỹ bài phát biểu của Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng (TBT NPT), đọc trước hội nghị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng ngày 02 tháng 05 năm 2013 tại Hà Nội, chúng ta có thể tiên đoán rằng những thay đổi sắp đến của Hiến pháp 1992, nếu có, như nhà nước vẫn đang kêu gọi dân chúng đóng góp vào Dự Thảo sửa đổi hiến pháp 1992, sẽ chỉ đi vào những chi tiết nhỏ thôi. Phần quan trọng nhất mà đa số các nhà trí thức trong và ngoài nước kêu gọi (tỉ dụ Kiến Nghị 72), cũng như đa số các hội đoàn tôn giáo đạo Ky Tô và đạo Phật trong và ngoài nước kêu gọi, sẽ không được nhà nước coi trọng và bàn đến. Tôi xin chép lại một phần của bài phát biểu của ông TBT NPT dưới đây để chứng minh cho điều tôi vừa viết:

http://www.boxitvn.net/bai/21624 Read the rest of this entry

Những biến dạng của các văn bản hiến pháp của đảng Cộng Sản Việt Nam

Tiêu chuẩn

Những biến dạng của các văn bản hiến pháp của đảng Cộng Sản Việt Nam

Nguyễn Duy Vinh (TS Cơ khí động học về hưu và đang dạy học tại Châu Phi)

Nhân mấy hốm nay có nhiều bài viết về hiến pháp Việt Nam trên mạng, tôi đọc và sửa lại đôi chút bài viết này để xin phát biểu cái nhìn của mình. Tôi chỉ chú trọng đến những thay đổi cơ bản và đột ngột của các văn bản hiến pháp 1946, 1959, 1980 và 1992 và tôi sẽ không bàn đến tính cách hợp hiến hay không hợp hiến cũng như giá trị pháp lý của những văn bản nêu trên. Read the rest of this entry

Quốc hội và quyền lợi của dân?

Tiêu chuẩn

Quốc hội và quyền lợi của dân?

AFR Dân Nguyễn

cau-hoi-thiet-ke-website

 

Quốc hội vừa kết thúc hai ngày thảo luận về những điều khoản trong HP mà nhân dân đã kiến nghị sửa đổi. Theo dõi những phát biểu với những quan điểm, lập trưởng của đa số các đại biểu, kể cả khẩu khí của nhiều đại biểu, người ta chẳng lấy gì làm ngạc nhiên về kết quả thảo luận.

 Trong số những điều cần sửa đổi được gửi đến Ban soạn thảo, có những điều được cho là rất quan trọng (quan trọng theo quan niệm của những người mong được sửa đổi đồng thời cũng được xem là quan trọng đối với những người chủ trương giữ nguyên không sửa đổi), như điều quy định về vai trò lãnh đạo của đảng cs VN, điều về sở hữu đất đai, về tam quyền phân lập, hay điều quy định quân đội cần hay không cần phi chính trị hóa… Read the rest of this entry

Bước đi Việt Nam và ‘quy luật niềm tin’

Tiêu chuẩn

Bước đi Việt Nam và ‘quy luật niềm tin’

Nguyễn Giang

bbcvietnamese.com

Bài phát biểu của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tại diễn đàn Shangri-La vừa qua đánh dấu một chuyển biến trong quan hệ đối ngoại của Việt Nam và vẫn đòi hỏi có thêm các đánh giá đúng mức sau nhiều bình luận khen chê trong và ngoài nước.

Trước hết, sự xuất hiện trở lại sau một thời gian khá lâu của Thủ tướng Việt Nam ở một diễn đàn quốc tế quan trọng – tính từ dịp ông tới New York tháng 3/2012 dự Thượng đỉnh An toàn Hạt nhân – là điểm son cho bản thân ông Dũng, người gặp nhiều khó khăn nội bộ thời gian qua đa số vì chính các vấn đề kinh tế nghiêm trọng của chính phủ ông điều hành gây ra. Read the rest of this entry

Sự thử thách của niềm tin

Tiêu chuẩn

Sự thử thách của niềm tin

Nguyễn thị Từ Huy

Nguyen thi tu huyimages640880_Ttg_NguyenTanDung

 

Thưa Thủ tướng,

Tôi đặc biệt có ấn tượng với đoạn văn sau đây, trong bài diễn văn khai mạc của Ngài tại Đối thoại Shangri-La lần thứ 12:

Ngôn ngữ và cách thể hiện dù có khác nhau, nhưng chắc chúng ta đều đồng ývới nhau: nếu không có lòng tin thì không thể thành công, việc càng khó càng cần có niềm tin. Việt Nam chúng tôi có câu thành ngữ “mất lòng tin là mất tất cả”. Lòng tin là khởi nguồn của mọi quan hệ hữu nghị, hợp tác; là liều thuốc hiệu nghiệm để ngăn ngừa những toan tính có thể gây ra nguy cơ xung đột. Lòng tin cần được nâng niu, vun đắp không ngừng bằng những hành động cụ thể, nhất quán, phù hợp với chuẩn mực chung và với thái độ chân thành.Read the rest of this entry

TS Cù Huy Hà Vũ: Nếu tôi chết, nhân dân Việt Nam sẽ trả thù cho tôi!

Tiêu chuẩn

TS Cù Huy Hà Vũ: Nếu tôi chết, nhân dân Việt Nam sẽ trả thù cho tôi!

Danlambao – Hôm 1/6/2013, LS Nguyễn Thị Dương Hà đã đến trại giam số 5 – Bộ CA (Yên Định, Thanh Hóa) để thăm nuôi chồng là tiến sỹ Cù Huy Hà Vũ, người hiện đang tuyệt thực đến ngày thứ 6 liên tục để phản đối hành vi ‘cố ý giết người’ của giám thị trại.
Bất chấp sự giám sát chặt chẽ của CA, TS Cù Huy Hà Vũ đã đọc lại toàn văn bức thư của ông cho vợ ghi chép lại, với lời xác quyết vẫn mạnh mẽ như ngày nào: “Tôi, Tiến sĩ luật Cù Huy Hà Vũ hi sinh tính mạng của mình để dân tộc Việt Nam hồi sinh. Tôi quyết tử để Tổ Quốc quyết sinh.”  Read the rest of this entry