Tag Archives: Đảng Cộng Sản

Chống tham nhũng ‘mới bắt được mèo con’

Tiêu chuẩn

Chống tham nhũng ‘mới bắt được mèo con’

Đảng viên Đảng cộng sản chửi quan chức đảng cộng sản là nói dối, là lừa phỉnh … Mong ông Bá Thanh không phải mang tiếng là nói to và không dám làm. Ông nói là “cho bắt hết” bọn tham nhũng, bọn sâu mọt … thế thì 97% còn lại trong trung ương đó hãy bắt hết để xét xem chúng đã ăn cắp đến đâu. Chỉ có 0,3% tổng số bọn tham nhũng ở Trung Ương là bị bắt, còn 97% còn lại đang làm gì ?

– “Các vụ án tham nhũng được phanh phui chỉ là những vụ nhỏ, ở cấp dưới và ‘chỉ mới bắt được con mèo con’. Cán bộ xã phường chiếm30% còn cấp trung ương chỉ chiếm 0,3%, bằng 1/100 của cấp thấp nhất”, GS Trần Đình Bút nhận định.

Hơn 200 đại biểu gồm lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các nhà khoa học, nhà quản lý, nhà nghiên cứu… dự hội thảo khoa học “Bàn về những giải pháp phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay” do Tạp chí Cộng sản cùng ĐH Quốc gia TP.HCM tổ chức hôm nay (15/1).

Quyền đẻ ra tiền

Chỉ ra nhiều loại tham nhũng khác nhau trong các lĩnh vực kinh tế, hành chính…, GS.TS Nguyễn Trọng Chuẩn, nguyên Viện trưởng Viện Triết học,đặc biệt lo ngại nạn tham nhũng quyền lực và chính trị.

“Điều này thể hiện rõ nhất trong khâu tuyển công chức các cấp, kể cả tuyển giáo viên… Ông Trần Trọng Dực, Chủ nhiệm UB Kiểm tra Thành ủy Hà Nội đã thừa nhận công khai điều này trước HĐND TP”, GS Chuẩn nói.

Theo GS Chuẩn, mức giá 100 triệu đồng ông Dực nêu là “quá thấp so với thực tế người dân hay nói đến”.

“Hậu quả của việc mua bán này là sau khi mua được chức và ngồi vào một cương vị nào đó thì tìm mọi cách xoay xở, kể cả những cách trắng trợn nhất, để thu lại số vốn đã bỏ ra và làm sao có lãi càng nhanh càng tốt”, GS Chuẩn lý giải.

Ông khẳng định, sức mạnh kinh tế một khi liên kết với quyền lực để hình thành lợi ích nhóm sẽ dẫn đến tham nhũng trong chính trị, chi phối chính sách. “Đây mới là điều đáng lo ngại nhất đối với sự tồn vong của chế độ, đất nước”, GS Chuẩn trăn trở.

Các nhà khoa học đặc biệt lo ngại nạn tham nhũng quyền lực

Chia sẻ với GS Chuẩn, GS.TS Hoàng Chí Bảo, Hội đồng Lý luận TƯ, cho rằng quyền đẻ ra tiền, nhiều người lợi dụng chức quyền, cơ hội, vị thế và hoàn cảnh để kiếm tiền.

“Tham nhũng trong kinh tế do đó gắn với tham nhũng trong chính trị, còn gọi là tham nhũng chính sách, khi chức quyền được huy động vào việc trục lợi, tạo ra cái giá của chức quyền, địa vị. Chạy danh, chạy chức, chạy quyền đã và đang diễn ra bằng tiền và vì tiền”, GS Bảo khẳng định.

Theo ông, tham nhũng chính trị và quyền lực là tham nhũng nặng nề và nguy hiểm nhất vì nó bộc lộ sự hư hỏng của con người, sự vẩn đục trong bộ máy, sự đánh mất nhân cách, liêm sỉ, lòng tự trọng, nghĩa vụ và bổn phận của người cán bộ, công chức.

“Một sự thật cần phải nhìn thẳng vào và nói ra – đó là tính nửa vời, không triệt để trong chống tham nhũng, đó là chống tham nhũng trên lời nói lại không đi liền với chống tham nhũng bằng việc làm, bằng hành động. Nó đem lại nỗi hoài nghi trong xã hội, không ít trường hợp tuyên bố chống tham nhũng chỉ như tấm bình phong che chắn tinh vi cho những hành vi tham nhũng trong bóng tối”, GS Bảo gay gắt.

Theo GS Bảo, muốn chống tham nhũng cần phải nhận rõ ai tham nhũng, những lĩnh vực nào có khả năng xảy ra tham nhũng.

“Hiển nhiên là dân không thể tham nhũng, xét về mặt nguyên tắc. Thường thấy tham nhũng xảy ra ở những người có quyền chức, dù to hay nhỏ, dù chỉ là công chức thừa hành hay quan chức có thẩm quyền cao, từ việc hàng ngày ở cơ sở đến những quyết sách các cấp từ địa phương đến trung ương”, ông nói.

GS. Trần Đình Bút, nguyên chuyên gia tư vấn Ban nghiên cứu của Thủ tướng, cho rằng, các vụ án tham nhũng được phanh phui chỉ là những vụ nhỏ, ở cấp dưới và “chỉ mới bắt được con mèo con”.

 

GS. Trần Đình Bút

 

“Cán bộ cấp xã phường chiếm tỷ lệ khoảng 30%, Trung ương chỉ chiếm 0,3%, bằng 1/100 của cấp thấp nhất. Biết bao nhiêu vụ tham nhũng lớn bị ém nhẹm, bưng bít toàn bộ hoặc từng phần, xử lý kéo dài lê thê, để rơi vào lãng quên như PMU 18, Huỳnh Ngọc Sỹ trong Ban quản lý dự án đại lộ Đông Tây ở TP.HCM…”, ông Bút nói. “Nhưng những vết nhơ đáng xấu hổ đó làm sao giấu nổi trước con mắt của người dân”.

Do vậy, ông phản ánh, người dân châm biếm “con mèo ăn vụng miếng mỡ cỏn con bị đập chết, con cọp cướp cả heo lại chẳng ai dám đuổi”.

Cần nghị quyết chống chạy chức

TS. Hoàng Văn Lễ, nguyên Tổng biên tập Tạp chí Sổ tay Xây dựng Đảng, đề nghị xây dựng đề án cải tổ các ban của Đảng từ TƯ đến cấp huyện. Trong đó, cần có nghị quyết chống chạy chức, chạy quyền, cải tổ hơn nữa quy trình tham mưu về công tác cán bộ.

GS. Chuẩn thì đề xuất nhanh chóng bổ sung luật Công vụ vì theo ông, tham nhũng gắn với những người thực thi công vụ các cấp chứ không liên quan đến người dân thường.

Tiếp đó, Quốc hội phải thực sự là cơ quan lập pháp chứ không chỉ thông qua luật pháp do các bộ, ngành chắp bút, tránh để lợi ích nhóm, lợi ích ngành chi phối luật pháp và các chính sách.

Một giải pháp chống tham nhũng khác được nhiều nhà khoa học tại hội thảo nhấn mạnh là kiểm soát tài sản và thu nhập cá nhân. Tài sản kê khai của người có chức quyền phải được công khai tại nơi công tác và nơi cư trú như nghị quyết TƯ 4 đã yêu cầu.

Bài và ảnh: Tá Lâm

 

Hai tử huyệt của chế độ

Tiêu chuẩn

 

 

 

Hai tử huyệt của chế độ

 

Hoàng Xuân Phú

 

 

Có lẽ lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) quan niệm rằng

–       quy định về quyền lãnh đạo của ĐCSVN đối với Nhà nước và xã hội, và

–       quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân và do Nhà nước quản lý

tại Điều 4 và Điều 17–18 của Hiến pháp 1992 là hai tử huyệt của chế độ. Vì vậy, dư luận càng muốn hủy bỏ hoặc sửa đổi hai quy định đó, thì họ càng kiên quyết bảo lưu. Chúng nằm trong định hướng bất di, bất dịch của lãnh đạo đảng, và được tái thể hiện tại Điều 4 và Điều 57 của dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992.

 

 

Tử huyệt độc quyền lãnh đạo

 

Trong thế giới văn minh, quyền lãnh đạo đất nước của một đảng chính trị chỉ có thể giành được thông qua tranh đấu và bầu cử dân chủ. Kể cả khi đang cầm quyền, đảng vẫn phải phấn đấu liên tục, để thuyết phục Nhân dân tin tưởng và tiếp tục trao cho quyền lãnh đạo.

 

Không thể lấy công lao trong một giai đoạn quá khứ để bù lại cho hiện tại yếu kém, với bao sai lầm, tội lỗi, và áp đặt cho cả tương lai vô định. Nếu cứ từng có công là được cầm quyền vĩnh viễn, thì ĐCSVN phải trả lại chính quyền cho triều đình nhà Nguyễn, và triều đình nhà Nguyễn lại phải trả lại chính quyền cho các triều đình trước đó. Thế là khởi động cho một quá trình truy hồi dằng dặc, mà không thể tìm được điểm kết thúc. Hơn nữa, thời gian qua đi, giờ đây nắm quyền lực bao trùm đất nước lại là những người vốn chỉ đi theo hoặc ăn theo cách mạng, hay từng được cách mạng o bế và cưu mang mà thôi. Nếu họ từng có công, thì chưa chắc bù nổi những lỗi lầm đã gây ra. Phần lớn những người có công đáng kể, những công thần của chế độ, đã qua đời, hoặc nếu còn sống thì đã về hưu, và có lẽ đang đau lòng vì phải chứng kiến sự nghiệp cách mạng của thế hệ mình bị phản  bội.

 

Không thể coi quyền lãnh đạo đất nước của bất kỳ đảng phái nào là đương nhiên, và vì vậy không thể ghi điều đó vào Hiến pháp. Vả lại, nếu quyền đó đã là đương nhiên, được mọi người mặc nhiên thừa nhận, thì cũng chẳng cần ghi vào Hiến pháp làm gì, để khỏi gây phản cảm một cách không cần thiết. Nếu một điều không phải là đương nhiên và không được tất cả mọi người thừa nhận, mà vẫn bất chấp, áp đặt bằng được trong Hiến pháp, thì chỉ riêng việc làm đó đã khắc họa xong tính dân chủ và tính hợp pháp của đảng và chế độ.

 

Nếu ĐCSVN được đa số Nhân dân tin cậy và ủng hộ, thì bất cứ cuộc tổng tuyển cử dân chủ nào cũng đưa lại một kết quả tất yếu, đó là trao cho đảng quyền lãnh đạo đất nước. Cho nên, khi khẳng định rằng “bỏ điều 4 Hiến pháp là tự sát”, thì có nghĩa đã mặc nhiên thừa nhận thực trạng tệ hại của đảng, khiến đa số Nhân dân không thể đồng tình ủng hộ và chắc chắn sẽ không bầu cho đảng. Nếu nghĩ là mình không còn xứng đáng, không còn được đa số Nhân dân tín nhiệm, mà vẫn dùng Hiến pháp để áp đặt bằng được vai trò lãnh đạo, thì có còn tử tế và vì Dân nữa hay không?

 

Con người muốn tồn tại và phát triển thì không thể khước từ thử thách, không thể lẩn tránh đối đầu. Ngược lại, phải chấp nhận thử thách, vượt qua thử thách mà vươn lên. Nếu một đứa trẻ luôn được o bế trong căn nhà vừa được vô trùng, vừa được điều hòa nhiệt độ một cách tuyệt đối, thì sẽ dễ bị đổ bệnh khi ra khỏi cửa. Nếu con cái được bố mẹ quá bao cấp, kèm cặp từng li từng tí, thì sẽ dễ ngã gục khi bước vào cuộc sống tự lập trong xã hội. Để tránh bệnh tật, hàng tỷ người trên thế giới chấp nhận tiêm vắc-xin, nhằm phát triển khả năng miễn dịch, tức là chủ động đưa cơ thể mình vào trạng thái thử thách. Muốn khỏe, con người không thể ỳ ra, mà phải thường xuyên khổ luyện dưới hình thức thể dục. Không có cạnh tranh, không có thi đua (thực chất), thì con người không thể khá lên được.

 

Không chỉ từng cá thể, mà cả quần thể, với tư cách tổ chức, đảng phái, hay cả xã hội, cũng phải biết đương đầu với thử thách. Vì biết tận dụng cuộc cạnh tranh giữa hai hệ thống chính trị trên thế giới để tự hoàn thiện, để giành phần thắng trong cuộc chiến tranh lạnh, nên các nước tư bản hàng đầu đã phát triển vượt bậc, không chỉ về kinh tế, khoa học và công nghệ, mà cả về dân chủ và phúc lợi xã hội, cũng như về quyền con người.

 

Ngược lại, các nước trong phe xã hội chủ nghĩa đã xử lý sai tình huống và quan hệ địch ta. Nhìn đâu cũng thấy địch, kể cả trong Dân, nên nhiều khi đối xử với Dân cũng giống như với địch, khiến dần dần mất Dân. Ỷ thế vào cường quyền, Đảng Cộng sản Liên Xô đã đầu têu trong việc cấm đảng phái khác hoạt động, để rồi sau này ĐCSVN cũng nối gót sai lầm. Các nước khác trong phe xã hội chủ nghĩa chấp nhận đa đảng, nhưng cũng chỉ là hình thức. Dân chủ xã hội và quyền con người bị bóp nghẹt, khiến tinh thần và trí tuệ cũng bị lụi tàn. Tưởng rằng như vậy thì các đảng cộng sản sẽ rảnh tay, có thể tập trung lực lượng chiến đấu với kẻ thù chính ở hệ thống bên kia, nhưng kết quả thì ngược lại. Kinh tế suy sụp, lòng Dân ly tán, khiến hệ thống chính trị được dày công xây dựng suốt hơn nửa thế kỷ bị phá từ trong phá ra, đổ rụp trong chốc lát, làm cho đối thủ cũng bị bất ngờ đến ngỡ ngàng.

 

Họa đôi khi cũng là phúc, nếu biết rút ra bài học hợp lý từ thảm họa. Nếu quay ra chấp nhận cạnh tranh một cách dân chủ trong xã hội đa đảng, đa nguyên, ĐCSVN sẽ buộc phải lựa chọn những người lãnh đạo thuộc loại ưu tú nhất, và chắc chắn sẽ chọn được hàng ngũ lãnh đạo tốt hơn gấp bội lần so với đội hình đương nhiệm, kể cả tài lẫn đức. Mọi phần tử thoái hóa, tham nhũng sẽ bị vạch trần và bị đào thải. Trong ba triệu đảng viên không thiếu người tài, người tốt. Vấn đề là phải dùng dân chủ để giải phóng tiềm năng bị độc quyền giam hãm bấy lâu. Không chỉ dựa vào nội lực, dân chủ xã hội còn cho đảng thêm cả sức mạnh từ ngoài đảng. Nếu đảng cầm quyền không tự nhận ra tồn tại yếu kém của mình, thì các đảng đối lập cũng sẽ vạch ra cho. Chẳng cần đến những nghị quyết vô dụng, những màn kịch phê bình – tự phê bình giả dối và lố bịch, thì ĐCSVN vẫn có thể vươn lên, tốt hơn hẳn hiện tại, để được Nhân dân tin tưởng mà trao quyền lãnh đạo.

 

Tiếc rằng, lãnh đạo của ĐCSVN lại phản ứng như gã tài xế ù lì, chỉ biết nghiến răng tăng ga, khi cỗ xe đang lao xuống đầm lầy. Một mặt, đảng càng suy sụp thì họ càng bóp nghẹt dân chủ trong đảng, dân chủ trong xã hội, và càng hạn chế quyền con người, nhằm duy trì quyền lực bằng bạo lực. Mặt khác, giới cầm quyền tranh thủ tham nhũng, đua nhau vơ vét, tước đoạt cả tài sản của Dân. Chính họ, chứ không phải thế lực thù địch nào khác, đã và đang phá nát ĐCSVN. Trạng thái độc đảng đã triệt tiêu sức chiến đấu và bản năng sống lành mạnh của đảng. Buông thả trong thế độc quyền, ĐCSVN đang tự tha hóa, tự hủy diệt, như cỗ xe không phanh, lao xuống dốc, hướng thẳng tới vực thẳm.

 

Có ý kiến đề xuất tăng cường dân chủ trong nội bộ đảng để bù lại, để tự gột rửa và điều trị căn bệnh ung thư đã bước sang giai đoạn di căn. Nhưng không thể tồn tại dân chủ trong một đảng độc quyền. Chỉ có dân chủ ngoài xã hội mới thúc đẩy dân chủ trong đảng, chứ không phải ngược lại.

 

Khước từ dân chủ xã hội, trong đó có thể chế đa đảng, ĐCSVN không chỉ gây thêm thù oán với Dân, mà còn tự tước bỏ khả năng đề kháng và hy vọng chữa trị căn bệnh nan y của chính mình. Sự bảo thủ kiêu ngạo đã bịt mắt giới lãnh đạo, khiến họ cố tình làm ngơ trước thực tế là: Đảng Nhân dân Camphuchia, một đảng từng được ĐCSVN nâng đỡ và phải đương đầu với hoàn cảnh khó khăn gấp bội, vẫn có thể giữ được quyền lãnh đạo đất nước thông qua bầu cử, mà không cần phải bức hại đa nguyên, không cần phải cưỡng bức Hiến pháp.

 

Cần phải nói thêm rằng: Quy định ĐCSVN là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội không có nghĩa nó là lực lượng lãnh đạo duy nhất, càng không phải là đảng duy nhất được phép tồn tại. Do đó, kể cả khi duy trì Điều 4 củaHiến pháp 1992, thì việc ngăn cấm các đảng phái chính trị khác thành lập và hoạt động là vi phạm quyền tự do hội họp, lập hội, được quy định tại Điều 69, Hiến pháp 1992 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

 

 

Tử huyệt sở hữu toàn dân về đất đai

 

Hiến pháp 1946 không đề cập đến đất đai. Hiến pháp 1960 chỉ quy định đất hoang thuộc sở hữu của toàn dân. NhưngHiến pháp 1980 và Hiến pháp 1992 thì quy định (toàn bộ) đất đai thuộc sở hữu toàn dân.

 

“Sở hữu toàn dân” lại có nghĩa là chẳng người dân nào có quyền sở hữu. Trớ trêu thay, nhân danh “sở hữu toàn dân” để tước đi quyền sở hữu của toàn dân. Những mảnh đất vốn dĩ có chủ, được khai hoang, được trao đổi, mua bán, hay được thừa kế hợp pháp từ bao đời, nay bỗng nhiên trở thành vô chủ. Bộ máy cầm quyền, vốn dĩ chẳng có gì, mà nay lại chiếm được tất cả, trong đó có quyền quyết định về đất đai trong cả nước.

 

Để vận động hàng chục triệu nông dân giúp đỡ cướp chính quyền, ĐCSVN đã giương khẩu hiệu “dân cày có ruộng”. Chữ“có ruộng” ở đây đương nhiên là “sở hữu ruộng đất”, chứ không phải chỉ là “có quyền sử dụng đất”. Sau khi giành được chính quyền ở miền Bắc, đảng đã lấy ruộng của người giàu chia cho người nghèo, rồi tiếp đó lại vận động nông dân góp ruộng để làm ăn tập thể, trong mô hình hợp tác xã nông nghiệp. Khi đã giành được chính quyền trong cả nước, lãnh đạo ĐCSVN quyết định quốc hữu hóa đất đai, dưới hình thức “sở hữu toàn dân”Nếu biết trước kết cục sẽ mất đất như vậy, liệu hàng triệu người có còn theo đảng, giúp đảng giành chính quyền nữa hay không?

 

Khi chính quyền tử tế, có khả năng sử dụng đất đai một cách vô tư, hợp lý và công bằng, thì sở hữu toàn dân về đất đai có thể tạo ra một sức mạnh cộng hưởng để xây dựng đất nước. Và người dân có thể tự an ủi rằng mình hy sinh bớt lợi ích cá nhân để phục vụ lợi ích cộng đồng, trong đó có cả bản thân và gia đình mình. Nhưng khi chính quyền tham nhũng thì sở hữu toàn dân về đất đai gây ra đại họa, không chỉ làm khổ muôn dân, mà phá nát cả chính quyền.Chỉ mất mấy giây hạ bút, kẻ mang danh “công bộc” đã có thể vơ về cả đống tiền của, mà một người lao động chân chính lăn lộn cả đời cũng không kiếm nổi. Chỉ với mấy chữ ký loằng ngoằng của mấy kẻ có chức quyền, hàng trăm, hàng ngàn người dân đã bị tước mất đất đai, nơi họ đang làm ăn, sinh sống, trở thành dân oan, lang thang khiếu kiện khắp nơi.Càng duy trì sở hữu toàn dân về đất đai, thì càng gia tăng oán hận của Dân, càng sinh sôi tham nhũng trong tầng lớp lãnh đạo, và càng đẩy nhanh quá trình tự hủy diệt của chế độ.

 

Bộ máy cầm quyền đầy ắp những kẻ tha hóa, cấu kết với bao kẻ vốn đã lưu manh từ trước khi chen chân vào chốn quan trường. Cái thứ “sở hữu toàn dân” ngon lành và dễ ăn như thế, làm sao kìm nổi lòng tham? Có thể những người đã no nê cũng tán thành tư nhân hóa đất đai, vừa giũ bỏ được cái nguồn kiếm chác béo bở đã trở thành “của nợ”, vừa có được quyền sở hữu vĩnh viễn cho số đất đai đã thu gom bấy lâu. Nhưng những vị còn chưa thấy đủ no và những kẻ kế cận đang mong chờ đến lượt mình được vơ vét thì lại không dễ buông tha.

 

Muốn nuốt thì hóc, mà muốn nhả ra cũng không hề dễ. Tư nhân hóa đất đai thế nào? Trao quyền sở hữu cho ai và trao bao nhiêu? Khi còn là sở hữu toàn dân thì chủ đất cũ đành chịu lặng thinh. Nhưng khi mảnh đất vốn của mình lại được giao cho một người lạ hoắc sở hữu, thì chủ cũ đâu dễ chịu ngồi im. Đất đai vốn dĩ nằm trong trạng thái phân bổ tương đối ổn định và hợp lý về mặt lịch sử, mấy chục năm qua bị đẩy vào tình trạng hỗn loạn. Nếu bây giờ muốn sửa chữa sai lầm, lập lại trật tự, thì lại quá khó. Hoàn cảnh thực tại giống như gã phàm ăn nuốt phải lưỡi câu: Nuốt tiếp thì vướng cước và có thể bị chọc thủng dạ dày, mà lôi ra thì móc vào cổ họng.

 

Thách thức vượt quá năng lực tư duy và hành động của những đầu óc u mê, trí tuệ giáo điều. Biết làm gì ngoài việc câu giờ, dồn hậu họa lên đầu những người kế nhiệm?

 

Quả là rất khó để thoát ra khỏi tình trạng sa lầy về sở hữu đất đai. Sai lầm càng lớn thì khắc phục càng khó. Songlãnh đạo ĐCSVN cần xác định rằng họ có trách nhiệm giải thoát Dân tộc ra khỏi bãi lầy, mà chính đảng đã đẩy Dân tộc xuống. Nếu biết huy động trí tuệ của Dân tộc và tạo được sự đồng thuận của Nhân dân, thì khó mấy cũng làm được. Cách làm như thế nào không phải là chủ đề trao đổi của bài này.

 

*

*      *

 

Quy định trong Hiến pháp về quyền lãnh đạo đương nhiên của ĐCSVN đối với Nhà nước và xã hội tưởng để đảng trường tồn, nhưng lại là điều khoản khai tử của ĐCSVN, khai tử khỏi lòng Dân và khai tử khỏi cuộc sống chính trị.

 

Quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân và do Nhà nước quản lý như cỗ máy khổng lồ, từng phút từng giờ đùn ra hàng đống thuốc nổ, nén chặt vào lòng Dân. Nó giống loại ma túy cực độc, có thể thỏa mãn cơn nghiện tham lam vô biên của giới cầm quyền, nhưng cũng tăng tốc quá trình tự hủy diệt của ĐCSVN và chế độ do đảng dựng nên.

 

Vì vậy, nếu muốn bảo vệ ĐCSVN và chế độ này, thì cần phải nhanh chóng loại bỏ hai quy định đó ra khỏi Hiến pháp.

 

Ngược lại, nếu muốn gạt bỏ sự lãnh đạo của ĐCSVN, thì có thể sẽ sớm được toại nguyện, nếu tiếp tục duy trì hai quy định ấy trong Hiến pháp, bởi lẽ không có cách phá nào nhanh hơn là tự phá.

 

Trích : http://hpsc.iwr.uni-heidelberg.de/hxphu/index.php?page=readwriting&w=HaiTuHuyetCuaCheDo-20130111

 

Hà Nội, 11/01/2013

 

 

 

Đảng Cộng Sản tự diễn biến, tự chuyển mình

Tiêu chuẩn

Con đường duy nhất để đảng cộng sản có thể tồn tại và trở thành một chính đảng thay vì bị diệt vong như ở các nước cựu độc tài và cộng sản trước kia, đó là con đường dân chủ hóa toàn diện đất nước. Dân chủ hóa tức là trả lại quyền làm chủ của mỗi người dân không phân biệt tôn giáo, chính kiến, tư tưởng, và người dân có quyền tối thượng trong việc tự do và trách nhiệm bỏ phiếu bầu cho những người mình cảm thấy đủ khả năng kiến tạo đất nước, cho đảng phái thu phục được số đông người dân. Và hơn nữa, chính mỗi người dân đều có quyền được tự do ứng cử không phân biệt tôn giáo, chính kiến, tư tưởng. Đó là con đường cho đảng cộng sản tự chuyển mình, tự thăng tiến và lấy lại được lòng dân. Từ một đảng tự gọi là của tầng lớp bình dân, nghèo, lao động, bảo vệ quyền lợi người bị áp bức trở thành một đảng phái độc tài, áp bức, bóc lột sức lao động, tham nhũng, lộng quyền, cướp đoạt tài sản của người dân, đặt ra đủ thứ thuế, làm tay sai cho cộng sản Trung Quốc, dùng quân đội làm búa đập đầu dân, dùng công an làm liềm đâp đập đầu dân, thì cái đảng đó có được phép tiếp tục tồn tại? Một đảng phải tự gọi là “của dân, do dân và vì dân” trở thành “kẻ thù của nhân dân”, thì kẻ thù đó sớm muộn gì cũng chị chính nhân dân tiêu diệt. http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2012/02/120227_cpv_meeting.shtml